Cuộc gặp gỡ giữa Kinh Kim Cương và tư tưởng của Đại thi hào Nguyễn Du

Kinh Kim Cương.
Kinh Kim Cương.
(PLVN) - Trong dòng phát triển của Phật giáo và lịch sử dân tộc Việt, Kinh Kim Cương là một bản kinh có vị trí vô cùng quan trọng. Những nhân cách lớn trong lịch sử và văn hóa dân tộc đã tiếp nhận, suy niệm và sử dụng Kinh Kim Cương. 

Nguyễn Du mang cốt cách của một vị thiền sư

Thời đại của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã sống là thời đại của những cuộc “thay đổi sơn hà” và những cảnh đời “bể dâu” chìm nổi. Không nằm ngoài những biến thiên của xã hội và giai đoạn lịch sử dân tộc mình, Nguyễn Du đã trải qua nhiều phen sóng gió.

Nhưng có lẽ, chính từ trong hoàn cảnh ấy, thấy được những trôi lăn và trầm luân của phận người, tác phẩm của ông luôn tràn đầy lòng thương cảm, thương cảm đến nỗi người đọc thấy như có “máu sa đầu ngọn bút”. Nhưng ở tác phẩm của Nguyễn Du, những số phận trôi lăn trong “cuộc bể dâu” cuối cùng luôn tìm được một nơi để trở về và nương tựa. 

Trong số những tác phẩm đại thi hào để lại, Truyện Kiều là một tác phẩm tiêu biểu và là tác phẩm vĩ đại. Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ cuối thế kỷ 19 đã gọi Truyện Kiều của Nguyễn Du là “một khúc Nam âm tuyệt xướng”. Năm 1924, Tổng thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức đồng thời là chủ bút báo Nam Phong, học giả Phạm Quỳnh (1892 - 1945) đã chia sẻ: “Truyện Kiều “vừa là kinh, vừa là truyện” (..) là “một thiên văn khế tuyệt bút”, là quốc hoa, quốc túy, quốc hồn của nước ta, để ta có thể “ngạo nghễ với non sông mà tự phụ với người đời rằng: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn”. 

Cho tới nay, hơn 250 sau ngày mất của đại thi hào dân tộc, hàng ngàn công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước về Truyện Kiều đã được thực hiện. Mục đích những nghiên cứu ấy là bởi cái tình, cái sự mến mộ, “yêu quý” Truyện Kiều đã được tiếp nối qua nhiều thế hệ trong lòng dân tộc. Nghiên cứu còn là để “hiểu Nguyễn Du” và “Hiểu Truyện Kiều”, cũng là để mở một cánh cửa khám phá những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn người Việt. 

Tượng danh nhân văn hóa thế giới, đại thi hào Nguyễn Du.
Tượng danh nhân văn hóa thế giới, đại thi hào Nguyễn Du.  

Người ta thường nghiên cứu câu chữ, thủ pháp nghệ thuật và quan điểm của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Nhưng điều chúng tôi cho rằng quan trọng nhất để “hiểu Nguyễn Du”, chính là ở tư tưởng mà cụ đã giác ngộ. Là bởi vì khi chắp bút viết bất kỳ một điều gì, dù là một tác phẩm đau đáu tâm can và mang tầm vóc đồ sộ, hay chỉ một vài câu tùy bút, cảm thán, những lời lẽ được viết ra ấy cũng luôn chứa đựng cái thấy của tác giả. Nói cách khác, tư tưởng của chúng ta sẽ soi sáng cho mọi giây phút thực tại mà chúng ta đang sống. Tư tưởng ấy có mặt trong từng ý niệm.

Cố nhiên, với một đại thi hào dân tộc như Nguyễn Du, tư tưởng nó sẽ có mặt, sẽ thấm nhuần trong mạch nguồn từng tác phẩm nghệ thuật của ông. Tư tưởng là nền tảng định vị giá trị và sự bền vững của một tác phẩm nghệ thuật trong dòng chảy lịch sử cùng những biến thiên của đời sống xã hội. Nguyễn Du là một trong ba nhân cách lớn của dân tộc thấu ngộ nghĩa lý Kinh Kim Cương. Nguyễn Du đã lấy Kinh Kim Cương làm sự nghiệp và mang cốt cách của một vị thiền sư thực sự theo tính truyền thừa.

Kinh Kim Cương trong dòng chảy lịch sử

Để hiểu tư tưởng của Nguyễn Du, chúng ta sẽ tìm hiểu qua về Kinh Kim Cương. Đây là một bản kinh quan trọng của Phật giáo. Theo những ghi chép trong Thiền Uyển Tập Anh , Kinh Kim Cương xuất hiện ở nước ta vào khoảng những năm nửa đầu thế kỷ thứ 7 với thiền sư Thanh Biện, vâng lời thầy tổ của mình là thiền sư Pháp Đăng  mà lấy việc trì Kinh Kim Cương làm sự nghiệp. Kinh Kim Cương như thế đã có mặt rất sớm, dường như cùng thời hoặc sớm hơn những dữ liệu ghi lại sự xuất hiện bản kinh này tại Trung Hoa . 

Trong dòng phát triển của Phật giáo và lịch sử dân tộc Việt, Kinh Kim Cương là một bản kinh có vị trí vô cùng quan trọng. Những nhân cách lớn trong lịch sử và văn hóa dân tộc đã tiếp nhận, suy niệm và sử dụng Kinh Kim Cương. Việc giác ngộ Kinh Kim Cương và vận dụng giáo nghĩa của nó trong đời sống đã khiến cho Phật thế quan và sắc thái nền Phật giáo dân tộc có những bước ngoặt quan trọng.

Từ thiền sư Vạn Hạnh, người có công lớn trong việc tạo dựng tiền đề khai mở triều đại nhà Lý với vị vua nhân từ, anh minh Lý Công Uẩn lớn lên nơi cửa thiền, cho đến người mở ra triều đại lừng lẫy kế tiếp cho nhà Trần là vua Trần Thái Tông. Và như thế, tiếp đến sau này, chúng ta có thêm một đại thi hào thấu ngộ nghĩa lý Kim Cương là Nguyễn Du. Đây chính là ba nhân cách lớn của dân tộc đã giác ngộ Kinh Kim Cương với những góc tiếp cận khác nhau trong áo nghĩa của kinh tùy theo từng giai đoạn lịch sử và góc nhìn của từng thời kỳ.

Nếu như với thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta có thể thấy được qua bài kệ thị tịch của ngài tinh thần của Kinh Kim Cương: Các pháp là vô thường (như mộng huyễn bọt bóng). Chính bởi các pháp vô thường nên con người phải sống với tinh thần vô chấp và quán chiếu vô tướng. Bài kệ thị tịch của thiền sư Vạn Hạnh chính là một tứ trong bài kệ ở phần cuối cùng của bản kinh này.

Phiên âm: 

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô

Dịch nghĩa: 

Thân như bóng chớp có rồi không

Cây cỏ xuân tươi thu héo hon

Theo vận thịnh suy không hãi sợ

Thịnh suy đầu cỏ tựa phơi sương 

Vạn Hạnh là vị thiền sư đã tạo ra thời cuộc với triều đại nhà Lý kéo dài 216 năm, từ vị vua anh minh Lý Công Uẩn. Có thể nói, thiền sư là một nhà chính trị đại tài. Ông đã có con mắt thấu trước thời cuộc và chăm dạy, đào tạo ra một đế vương lỗi lạc, nhân từ. Đại cuộc thành rồi , người vẫn chỉ mặc áo nâu sồng bởi đã thấu lý giác ngộ “thân như mộng huyễn..”

Cho đến Trần Thái Tông, như chính lời chia sẻ của nhà vua trong bài tựa Thiền Tông chỉ nam: “Trẫm thường đọc Kinh Kim Cương, đến câu “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm”, vừa gấp sách lại ngâm nga, bỗng nhiên tỉnh ngộ”

Trong bối cảnh xã hội và vị thế của mình lúc bấy giờ, vua Trần Thái Tông đã ngộ được triết lý Kinh Kim Cương ở một khía cạnh khác. Không nhất thiết phải dự hàng xuất gia với y áo pháp phục và giới luật. Phật giáo cần đi vào đời sống với những tận cùng của khổ đau gian khó.

Người bần hàn cần nâng đỡ; kẻ khốn cùng cần được chở che; quốc gia xã tắc cần yên ổn, thịnh vượng. Phật giáo vì vậy đề cao nhu yếu vô trụ, vô chấp để đi vào đời sống và giải quyết trực tiếp những vấn đề mà đời sống đặt ra. Nhà vua không nhất thiết phải xuất thế và thiền sư không nhất thiết phải nhập thế. Bởi lẽ, xuất thế hay nhập thế không chỉ ở hình tướng mà ở tại nơi tâm. 

Trần Thái Tông đã lấy tư tưởng vô trụ và tinh thần phật ở tại lòng như lời dạy của quốc sư Phù Vân  để làm kim chỉ nam cho cuộc đời chính trị và tu hành của mình. Ngài đã vì lòng thương xót muôn dân mà tinh tấn tu thành, tham thiền liễu ngộ. Không xuất thế, nhưng ngài thực sự là một vị vua, một vị thiền sư đạt đạo.

Bên cạnh thái độ nhập thế tùy duyên để trị quốc, an dân, ngài còn trăn trở để tìm mọi cách, từ lấy mình làm gương cho thiên hạ, đến việc xây dựng chính trị, văn hóa, giáo dục và còn tự tay viết ra nhiều tác phẩm với mong muốn thêm một phương tiện cho muôn dân của mình rời bỏ đường mê mà sớm quay về bờ giác ngộ. 

Lục thời sám hối khoa nghi, thiền tông chỉ nam, Kim Cương tam muội kinh tự, khuyến phát bồ đề tâm văn, phổ thuyết tứ sơn,… là những tác phẩm còn vẹn nguyên giá trị trong khoa nghi dành cho các bậc tu hành vẫn thường hành trì cho đến ngày nay. 

“Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm” chính vì vậy đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Đó chính là bước chuyển mình trong nhận cần thiết và đúng lúc. Nó đánh dấu sự phát triển lớn trong tư tưởng Phật học và quan điểm về thiền nhập thế thời kỳ này.

(còn nữa)

Đọc thêm

Giải mã tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt

Nhà thờ họ Trương Việt Nam ở thị trấn Thiên Tôn, Ninh Bình là công trình cấp quốc gia.
(PLVN) - Không chỉ là thần Núi, với lý lịch con thứ 17 của Lạc Long Quân, Lạc tướng Vũ Lâm đời Hùng Vương thứ Nhất, việc thờ cúng Cao Sơn Đại vương tại Hoa Lư tứ trấn và Thăng Long tứ trấn chính là tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đỉnh cao của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.

Ly kỳ chuyện đại hồng chung cứu chúa ở ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang

Chùa Linh Thứu là một trong những ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang.
(PLVN) - Khởi nguyên là ngôi chùa mục đồng giữa khu rừng hoang, Sắc tứ Linh Thứu ngày nay được xem là ngôi chùa cổ nhất đất Tiền Giang. Cổ tự 3 lần được sắc tứ này nổi tiếng với những câu chuyện ly kỳ về chiếc đại hồng chung năm xưa từng cứu chúa Nguyễn Ánh thoát nạn khi còn long đong bôn tẩu phương Nam.

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 7): Vì sao vua Hùng lại mang tên Cao Sơn?

Vua Hùng được nhân dân suy tôn là Đột Ngột Cao Sơn.
(PLVN) - Cao Sơn (núi cao) là danh hiệu mang tính biểu tượng của thần Núi, vị thần trong tín ngưỡng dân gian nguyên thủy. Không phải là thần Núi nhưng hàng nghìn năm qua, Hùng Vương thứ Nhất được nhân dân thờ cúng với thụy hiệu Đột Ngột Cao Sơn. Vì sao vua Hùng lại có danh hiệu này?

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 6): Khám phá tín ngưỡng thờ thần Huyền Vũ

Núi Cánh Diều tương truyền là nơi thần Thiên Tôn cắm gươm hóa.
(PLVN) - Trong bách thần của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc có nhiều vị thần của Đạo giáo. Qua thời gian, từ một thánh thú có biểu tượng rùa - rắn, Huyền Vũ trở thành một vị thần của tín ngưỡng Trung Quốc, rồi thành thần tiên trong Đạo giáo và thành thần của người Việt. Đến nay, những dấu vết, biểu hiện của Đạo giáo có thể tìm thấy trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 7): Tuệ Trung Thượng Sĩ luận về chuyện sống chết

Tuệ Trung Thượng Sĩ luôn coi nhẹ chuyện sống chết ở đời.
(PLVN) - Không xuất gia đầu Phật, sống cùng thế tục, nhưng tinh thần thiền học khai phóng của Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làm thay đổi nhiều dòng thiền. Trong đó, đối với ngài chuyện sống chết luôn xem nhẹ, bởi chỉ có nhận biết được vòng xoay luân hồi của cuộc đời thì người tu hành mới không vướng bận, mới chuyên tâm tu tập chánh pháp.

Zèng - “báu vật” của người Tà Ôi

Zèng được sử dụng làm của hồi môn trong đám cưới của dân tộc Tà Ôi.
(PLVN) - Việc bảo tồn và phát triển nghề dệt Zèng truyền thống không chỉ giữ gìn biểu tượng văn hóa lâu đời của bà con dân tộc Tà Ôi, mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống cho bà con.

Cúng mặn hay cúng chay?

Một mâm cúng chay.
(PLVN) - Cúng mặn hay cúng chay là vấn đề nhiều người dân băn khoăn khi thành kính dâng cỗ cúng cha mẹ, gia tiên. Người Việt chúng ta thường hay nói “trần sao âm vậy”. Nhưng liệu chúng ta đã thực sự hiểu thấu đáo câu nói này?

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ
(PLVN) - Thiền sư Không Lộ là một hiện tượng thi ca độc đáo trong dòng thơ thiền Việt Nam. Bài thơ “Ngư nhàn” – “Cái nhàn của ngư ông” được giới chuyên môn đánh giá là sự cất cánh của một tâm hồn thi sĩ. Bài thơ tràn ngập ý vị thiền, qua cái nhìn độc đáo của một nhà sư biết sống tùy duyên, luôn mở lòng, chan hòa với cuộc đời.

Lay lắt nghề thêu tay truyền thống Bình Lăng

Những người thợ của làng nghề Bình Lăng hiện tại chủ yếu là trung tuổi.
(PLVN) - Làng Bình Lăng (xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, Hà Nội) xưa nay được biết đến là làng thêu tay nổi tiếng đất Việt. Sau một thời gian dài phát triển thịnh vượng, giờ đây, bởi thiếu nguồn nhân lực trẻ, thu nhập thấp… thêu tay truyền thống Bình Lăng rơi vào cảnh “thoi thóp”.