Cũng như nhiều nhà thơ trẻ khác, Khúc Hồng Thiện làm thơ trên bàn phím. “Hết pin” trở thành một “sự cố” trong sáng tác: “Hết pin là hoảng hốt/đang viết cũng dừng lại/đang in cũng phải dừng/thậm chí đang nghĩ cũng chẳng nghĩ được nữa” (Hết pin). Anh cũng đưa vào thơ cả những thao tác trên máy tính “Chưa chắc cứ nhanh là ẩu đoảng/cứ vo tròn bóp bẹp là lạ là hay/cứ delete là sạch sanh kí ức” (Gác).
Ở một số bài, tư duy mới trong thơ của anh rất trẻ trung, hiện đại trong cách đặt tên bài thơ: “Bài thô”, “Đường”, “Diễn đạt lại”, “Ghi chú mới”… và cả trong diễn đạt như những câu nói thường ngày: “Nhập ghi chú/lưu/hình nền vẽ, viết tay, thư viện/ bao lựa chọn: chấm - chạm - vuốt - ấn/chẳng để ra một kết quả gì” (Ghi chú mới), “Kể nhé/sẽ rất lằng nhằng đấy/sẽ rất vô lý nữa” (Kể đi), có khi là những khái niệm: “… ô hay/đâu phải cứ đồng dạng/cứ tròn trịa sạch sẽ không tỳ vết/là đẹp/thô có vẻ đẹp nguyên khôi” (Bài thô)…
Những dòng thơ như thế có thể giúp thơ anh hòa đồng với những sáng tác của các nhà thơ trẻ - những người thừa hưởng những thành tựu của công nghệ và tâm thế của thời đại, mạnh dạn đi sâu khai thác những rung cảm trực giác tác động đến bản thể, có khi bỏ qua những xúc cảm và đưa đến người đọc những ý niệm bằng sự thô ráp của ngôn từ.
Tuy nhiên, trong “Cùng nhau nhân từ”, Khúc Hồng Thiện không sa vào xu hướng đó. Anh không dừng lại ở những cảm xúc giản đơn, thiên về lý trí mà đã tìm tòi, mạnh dạn khai mở những vỉa mạch trầm sâu trong tâm hồn của chính bản thân mình. Trong anh, chính là sự kết tinh hài hòa phẩm chất đẹp đẽ, lành mạnh của con người thời cuộc và ý thức sâu sắc về cá nhân nên việc khai thác bản thể sẽ đem đến cho người đọc những điều thú vị, bổ ích.
Trong tập thơ này, lục bát vẫn là những điểm mạnh của Khúc Hồng Thiện. Đó là thể thơ giúp anh trở về với hồn dân tộc, gần gũi với đông đảo bạn đọc và dễ được cảm thông, chia sẻ. Trong “Bâng khuâng thành cổ”, những dòng lục bát của anh cứ tự nhiên, dung dị nhưng đọc lên thấy tim mình nhói đau như ai chạm đến những vết thương lòng mỗi người: “Màu vôi xương trắng ngày xưa/ đến đây vẫn buốt như vừa mới thôi”, “Bâng khuâng thành cổ còn hằn/ lên bao dấu hỏi nhọc nhằn/ Mai đây” (Bâng khuâng thành cổ). Người đọc cũng không thể dửng dưng với những điều nhà thơ cảm nhận và suy ngẫm, nó tạo được những ám ảnh lớn trong tâm hồn con người.
“Cùng nhau nhân từ” có 55 bài thì đến 25 bài là lục bát. Lục bát của Khúc Hồng Thiện trôi chảy, chân mộc. Những dòng vào bài của anh tưởng là vô thưởng, vô phạt nhưng càng đọc thì ý tứ, tư tưởng thơ dần dần lộ ra có khi bất ngờ. Anh viết về dòng sông nhưng chính là bàn về môi trường một vấn đề được nhiều người quan tâm. Nhiều bài thơ của anh ẩn chứa những cảm xúc trữ tình - công dân của một con người sống có trách nhiệm như: “Mưa rửa đền”, “À ơi, câu hát”, “Chiều rồi, Nho Quế”, “Thủy”…
Một ghi nhận nữa ở thơ của nhà thơ trẻ này là vẫn giữ được những cảm xúc truyền thống của con người Việt Nam. Đó là tình yêu thương những người gần gũi, gắn bó với mình trong cuộc sống gia đình và quan hệ quê hương làng xóm. Trong thơ anh những “ổ rơm”, lời ru “à ơi”, “cái cò”, “đòng đong, cân cấn”… biểu tượng của hồn quê vẫn được nâng niu, gìn giữ. Những câu thơ anh viết về mẹ thật nặng tình.
Người mẹ trong thơ anh thường gắn bó với những kỉ niệm của một thời cháo rau, nghèo khó ở một vùng quê lam lũ: “Nao nao nhớ mẹ lùa rơm/Cho sôi bát cháo miếng cơm vội vàng/Mã đề rau má một thang/Thức quê mộc mạc con mang bên lòng” (Nao nao nhớ mẹ) và sâu xa hơn là sự tri ân sâu sắc: “Mẹ ta đầu đội nón mê/mà che mát cả bốn bề nước non/đồng quang mẹ dẫu chẳng còn/vẫn nguyên lời dặn cháu con nhân từ” (Mẹ ta).
Truyền thống nhân văn từ lòng kính thương mẹ đến tình yêu nam nữ, thương quý bạn bè, anh em… trở thành tình cảm chủ đạo trong tập thơ, nó giúp cho thơ Khúc Hồng Thiện có được sự cộng hưởng chia sẻ của số đông độc giả và khẳng định hướng đi đúng đắn của một nhà thơ trẻ.