Công lý về với vườn chè
Ông Hồng A Sáng và bà con trồng chè ở thôn 8, xã Lộc An, huyện Bảo Lâm tưởng chừng tuyệt vọng trước Bản án Phúc thẩm số 88 của TAND tỉnh Lâm Đồng thì mới đây, công lý đến với họ khi Chánh án TANDTC Quyết định kháng nghị tạm đình chỉ thực hiện bản án, đề nghị Tòa Dân sự TANDTC hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm vì có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Sau gần 3 năm, ông Hồng A Sáng và bà con trồng chè ở thôn 8, xã Lộc An, huyện Bảo Lâm tưởng chừng tuyệt vọng trước Bản án Phúc thẩm số 88 của TAND tỉnh Lâm Đồng thì mới đây, công lý đã đến với họ khi Chánh án TANDTC Quyết định kháng nghị tạm đình chỉ thực hiện bản án, đề nghị Tòa Dân sự TANDTC hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm vì có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Từ việc nhận khoán vườn chè
Cũng như nhiều bà con nông dân trồng chè nghèo ở thôn 8, xã Lộc An, huyện Bảo Lâm, ngày 7/11/1994 gia đình ông Hồng A Sáng ký hợp đồng mướn đất làm kinh tế với Nông trường 26/3, thuộc Cty Chè Lâm Đồng, nay là Cty Cổ phần chè Hà Giang (Cty chè) rộng 0,45 ha tại xã Lộc An, huyện Bảo Lâm thời hạn 50 năm và gia đình ông Sáng bỏ vốn đầu tư trồng mới hoàn toàn.
![]() |
| Ảnh minh họa |
Theo hợp đồng, sau khi đưa vào kinh doanh gia đình ông Sáng mới phải chịu thuế đất (thuế nông nghiệp) 400 kg thóc qui ra/1ha + 2% chi phí quản lý tính theo sản lượng tăng hàng năm các loại cây trồng. Năm 1999, gia đình ông Sáng và Nhà máy chè 26/3 ký hợp đồng khoán vườn chè số 29 rộng 0,9849ha thuộc lô 43, thửa 69, tờ bản đồ số 3, xã Lộc An để trồng mới chè cành theo hình thức Cty đầu tư làm đất, cây giống, phân hữu cơ, phân bón lót năm trồng đầu tiên; phần còn lại nếu người nhận khoán đầu tư thì Cty thu 19% sản phẩm theo hợp đồng nhận khoán.
Theo Quy chế khoán cây chè, cây cà phê số 298 do Giám đốc Cty Chè Lâm Đồng ban hành ngày 30/7/2000, Điều 3 khẳng định: “Cty chè Lâm Đồng đảm bảo tính ổn định, lâu dài với Hợp đồng khoán nhằm tạo sự an tâm cho người nhận khoán”; Điều 6 ghi rõ: “Thời gian giao khoán 50 năm theo quy định của Luật Đất đai năm 1993”.
Tin vào những văn bản đó, sau khi ký hợp đồng, gia đình ông Sáng và nhiều bà con đã trồng mới toàn bộ diện tích nói trên, và theo ông Sáng cho biết gia đình ông đã nộp sản phẩm cho Cty chè nghiêm chỉnh. Cụ thể, đã giao nộp sản phẩm chè cho Cty đến hết năm 2002 trên diện tích 0,45 ha và cũng giao nộp sản phẩm đến hết năm 2003 đối với diện tích 0,9849.
Nhưng cuối năm 2003, Cty chè đơn phương hủy bỏ hợp đồng ký ngày 7/11/1994, buộc gia đình ông Sáng cũng như bà con ký lại hợp đồng mới với mức thu sản phẩm là 11%!. Ông Sáng và bà con phản ứng vì Cty vi phạm hợp đồng, trái với những cam kết và quá o ép nông dân nghèo. Sau đó, Cty chè khởi kiện đòi thu hồi lại đất và khấu trừ các khoản nợ sản phẩm!
Ngày 21/12/2006, TAND huyện Bảo Lâm ra Bản án sơ thẩm số 43: “Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Cty chè về việc “kiện vi phạm hợp đồng nhận khoán”, buộc ông Hồng A Sáng thanh toán nợ nghĩa vụ cho Cty theo hợp đồng nhận khoán là 20.807.729 đồng, ông Sáng trả lại diện tích đất nhận khóan 11.082m2 tại thửa 55/33 tại thôn 8, xã Lộc An, Bảo Lâm cho Cty chè. Cty chè có trách nhiệm thanh toán lại cho ông Sáng giá trị đầu tư với số tiền 28.234.655 đồng” .
Ngày 15/6/2007, TAND tỉnh Lâm Đồng ra Bản án phúc thẩm số 88: “Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Sáng, sửa án sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Cty chè, buộc ông Sáng thanh toán tiền nợ sản lượng chè cho Cty chè là 21.867. 294đ; buộc ông Sáng trả lại 11.028 m2 đất nhận khoán đã trồng chè thửa 55/33 tại thôn 8, Lộc An cho Cty chè. Cty chè phải thanh toán lại cho ông Sáng giá trị đầu tư trên đất là 34.796.000đ”(!?). Không đồng ý, ông Sáng và bà con nông dân đã đội đơn khiếu nại.
Hủy án vì sai phạm nghiêm trọng
Tại Quyết định kháng nghị số 424 ngày 10/6/2010, Chánh án TANDTC cho rằng tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ tại sao ông Sáng chưa tiếp tục ký hợp đồng với Cty chè, không nộp sản phẩm cho Cty. Các hộ dân nhận khoán khác cùng với ông Sáng đã ký lại hợp đồng với Cty theo quy chế mới do Cty ban hành hay chưa?. Cần làm rõ quy chế mới do Cty chè ban hành có đúng quy định pháp luật hay không?.
Đáng lưu ý hơn, khi tính giá trị đầu tư vào vườn chè của mỗi bên, TA cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã căn cứ bảng tính giá trị vườn chè do Cty tự lập ngày 23/8/2005 để “phán” Cty hoàn trả giá trị đầu tư cho ông Sáng 34.796.000đ là không đúng, vì bảng tính giá trị vườn chè chưa có sự thống nhất giữa ông Sáng với Cty về số tiền mỗi bên đã đầu tư.
Phó Chánh án TANDTC Từ Văn Nhũ cho rằng: Theo bảng tính công nợ của ông Sáng ngày 13/5/2007 do Cty chè lập, trong 4 năm (từ năm 2003-2006) Cty chè đã giảm thuế nông nghiệp cho ông Sáng. Tuy nhiên, theo Nghị quyết 15 ngày 17/6/2003 của Quốc hội và Điểm c, Khoản 1, Điều 1 Nghị định 129 của Chính phủ thì: “Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn mức đối với hộ gia đình, cá nhân là nông trường viên, lâm trường viên nhận đất giao khoán ổn định của Nông trường, Lâm trường để sản xuất nông nghiệp”.
Nên việc TA cấp sơ thẩm và phúc thẩm chỉ mới tính giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp cho ông Sáng là chưa đúng với quy định của pháp luật…Từ đó, Quyết định kháng nghị đã đề nghị Tòa Dân sự TANDTC xét xử giám đốc thẩm hủy 2 bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm; giao hồ sơ cho TAND huyện Bảo Lâm sơ thẩm lại.
Quyết định ấy đã đem lại niềm tin cho nhiều hộ nông dân nghèo nhận khoán trồng chè một nắng hai sương ở Lâm Đồng. Đáng tiếc là ông Sáng và bà con đã bị cưỡng chế thi hành án, nên thiệt hại họ vẫn phải gánh chịu./.
Phúc Ân
