Ai cũng có một miền quê thân thương với cây đa, bến nước, cổng làng. Từ xa, nhìn thấy cổng làng là thấy quê hương, cha mẹ, gia đình… Từ cổng làng, ta bước ra với đời và cổng làng vẫn trầm mặc, lặng lẽ đón ta vào dẫu ta buồn hay vui. Thời làng lên phố, giữa Thủ đô 1000 năm tuổi, vẫn còn rất nhiều cổng làng…
Đó là phố Thụy Khuê thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Phố này bắt đầu từ ngã tư trục đường Thanh Niên, Hùng Vương, phố Quán Thánh có Đền Trấn Vũ linh thiêng và quảng trường Lý Tử Trọng hoành tráng, chạy song song với con đường bờ Nam bao quanh Hồ Tây đẹp như một bài thơ.
Các cổng làng trên phố Thụy Khuê, cái nọ cách cái kia chỉ vài trăm mét, đặc biệt đoạn áp chợ Bưởi và đường Lạc Long Quân. Các cổng làng không giống nhau về nét kiến trúc cũng như kích thước. Mỗi chiếc mang một vóc dáng riêng, với những tên gọi ngắn gọn dễ nhớ: Cổng Giếng, cổng Chùa, cổng Hầu, cống Đông, cổng Xanh…Có cổng cũ kỹ, rêu phong cổ kính, bạc mầu theo thời gian, có cổng bị mục nát nên được trùng tu, tôn tạo, thậm chí làm mới hoàn toàn. Tuy nhiên, ngắm nhìn chiếc cổng làng được quét loại sơn hiện đại, chống mốc, đẹp lộng lẫy, tấm lòng người “hoài cổ” vẫn nôn nao, bồi hồi, luyến tiếc cái “Một đi không trở lại”, “ Ngàn năm chưa dễ đã ai quên”.
Xuôi phố Thụy Khuê từ Đông sang Tây, các cổng làng đều ở mé bên tả (tay trái). Các cổng làng có chỗ giống nhau, hai bên đều khắc tạc đôi câu đối bằng chữ nho. Cổng làng trước đây đều có cánh, mở vào buổi sớm, bắt đầu của một ngày lao động và được đóng, cài then khi trời về khuya. Phía trong cổng tô điểm những mái đình, đền và những gốc cây bồ đề, muỗm, si, cây đa… sum suê mát rượi, giữ lại vẻ cổ kính, u tịch rất riêng của làng quê Việt Nam.
Theo như cụ Tài - năm nay đã ngoài 80 tuổi, người làng Thụy Khuê gốc - kể lại, trước đây vùng đất này được biết đến với tên gọi Kẻ Bưởi, một làng nghề nằm ven hồ Tây có nghề truyền thống làm giấy dó: “ Gió đưa cành trúc la đà./ Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương/Mịt mù khói tỏa ngàn sương./Nhịp chầy Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”. Nhịp chầy Yên Thái, chính là âm thanh tiềng chầy giã dó, một thứ nguyên liệu chủ yếu sản xuất giấy dó của làng Yên Thái xưa. Nội thành Hà Nội mở rộng, trong cơn lốc đô thi hóa “ làng lên phố”, phố Thụy Khuê- kẻ Bưởi xưa cũng không nằm ngoài thời cuộc.
Nhiều biệt thự, nhà cao tầng kiến trúc theo kiểu Tây, Tầu…thi nhau mọc lên hoành tráng. Dấu xưa chỉ còn ẩn hiện chấm phá, giữ được cái hồn làng quê chính là những cổng làng. Cổng làng tạo cho phố Thụy Khuê một không gian làng xã ấm cúng, bà con sống với nhau nhiều đời, gắn bó họ hàng “ dây mơ, rễ má” nên đối xử với nhau nặng “ tình làng nghĩa xóm”, không phải phố nào của Hà Nội cũng có được. Bên trong cổng, dẫn vào các xóm còn có nhiều cổng ngõ. Cổng ngõ nhỏ hơn so với cổng làng, tồn tại để xác định ranh giới xóm thôn khác nhau. Khách đến đây hỏi số nhà nhưng phải thuộc xóm nào, thôn nào, nếu không muốn mất thời gian loanh quanh tìm kiếm.
Phía sau các cổng làng nằm dọc phố Thụy Khuê vẫn giữ những nếp sinh hoạt làng xã, họ rất tự hào về quê hương mình. Cụ Tài tâm sự: “Dù đi đến đâu, ai hỏi quê quán, tôi đều trả lời người làng Bưởi.” Người gốc Bưởi có giọng nói đặc trưng nhẹ, thanh, có đôi chút khác với giọng Hà Nội chuẩn. Thụy Khuê - làng Bưởi xưa còn có nghề dệt và nấu rượu nổi tiếng, đặc biệt là rượu hương sen thơm, nhẹ thường dùng khai vị trong các bữa tiệc ngày Tết.
Người Thụy Khuê, còn có một tên khác, phường Thụy Chương gắn liền với tên tuổi hoàng tử Linh Lang, sinh tại làng Thụy Chương ( Thụy Khuê), bên hồ Dâm Đàm ( Hồ Tây) đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến đấu chống quân xâm lược( 1076- 1077). Cuối đời nhà Trần, dân làng xây đền thờ ông, đó là đền Voi Phục nằm ở phía Nam công viên Thủ Lệ, nơi có “vườn cổ tích” toàn cây muỗm, có tuổi đời từ 700 đến 1000 năm.
Đi trên phố Thụy Khuê vào những ngày giáp tểt, bất chợt ta gặp những đôi nghê đá trước các cổng làng chầu ra mặt đường được lau chùi sạch bóng, cổng làng treo lá cờ Đại cạnh lá cờ Tổ quốc; quanh cổng treo đèn kết hoa, hai bên cổng là những chậu hoa đào, quất do chính tay người làng chăm bón quanh năm. Trước cửa mỗi nhà, cây nêu được thay bằng ngọn quốc kỳ tung bay trước gió Xuân. Sáng 30 Tết, cả làng tổ chức làm vệ sinh đường làng, ngõ xóm sạch sẽ, rác tường được xóa bỏ, quét vôi trắng…Các gia đình trong làng vẫn giữ lệ, con cái đi làm ăn nơi xa, chiều 30 Tết đều trở về xum họp, thắp nén nhang tưởng nhớ tổ tiên, ông bà cha mẹ, sau đó là bữa cơm tất niên đầm ấm…
Nhà thơ Vũ Đình Minh khi còn sống, vào một dịp tết đi qua Cổng Giếng, làng Yên Thái - nơi Bác Hồ đã từng đi qua khi Người về thăm làng nghề Yên Thái trong dịp Tổng tuyền cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ( ngày 6/1/1946) – đã từng ngây ngất trước vẻ đẹp của cổng làng rêu phong, cổ kính, “ tức cảnh sinh tình” mà sáng tác bài thơ CỔNG LÀNG, trong đó có đoạn:
Người về đến cổng làng
Tin đã vào cuối ngõ
Chén mừng ngày gặp gỡ
Chợt thương bạn không về
Cổng làng như mắt mở
Giãi dầu vầng trăng khuya…
Lê Sĩ Tứ