Công khai, minh bạch trong cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Đẩy mạnh việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho các tổ chức và công dân là một trong những yêu cầu của công tác cải cách hành chính của thành phố. Đây cũng là mong muốn của mọi tổ chức và cá nhân bởi khi có GCNQSDĐ, mọi giao dịch dân sự liên quan đến đất đai thực hiện thuận lợi hơn, hạn chế đến mức thấp nhất các tranh chấp xảy ra; đồng thời góp phần phục vụ các dự án phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương.
Nhầm lẫn về hạn mức đất trong cấp GCNQSDĐ
Trong các năm 2000, 2001, nhiều xã thuộc huyện An Hải (trước đây), Thủy Nguyên và huyện Kiến Thụy có “phong trào” tiến hành cấp GCNQSDĐ công nhận quyền sử dụng cho các công dân sử dụng đất ở ổn định, lâu dài và không có tranh chấp với ai. Ở khu vực nông thôn, các hộ dân thường quản lý, sử dụng đất ở hàng trăm mét vuông, cá biệt có trường hợp lên tới hàng nghìn mét vuông do cha ông để lại.
Vào thời gian này, nhà nước và thành phố có quy định hạn mức cấp đất ở cho công dân ở khu vực nông thôn không quá 200 m2, ở nội thành không quá 120 m2. Các địa phương nêu trên áp dụng quy định của thành phố vào việc cấp GCNQSDĐ công nhận quyền sử dụng đất cho công dân bằng việc chỉ ghi đất ở là 200 m2, diện tích còn lại “sáng tạo” ra một thuật ngữ mới là “vườn tạp” không có trong bất kỳ một văn bản pháp luật quản lý đất đai nào. Đến khi các hộ gia đình được cấp GCNQSDĐ thực hiện các giao dịch dân sự gặp nhiều khó khăn, thua thiệt, khiếu nại nhiều cấp, ngành, nhưng không được giải quyết dứt điểm.
Xin nêu một ví dụ, ông Hoàng Thế Kếm được UBND huyện An Hải (trước đây) cấp GCNQSDĐ mảnh đất thổ cư mua lại của người khác với diện tích 465 m2 tại tổ 8, thôn Kiều Sơn, xã Đằng Lâm (nay là phường Đằng Lâm, quận Hải An). Trong GCNQSDĐ có sai sót ghi tên ông thành "Kến". Năm 2001, ông Kếm làm đơn đề nghị được đính chính GCNQSDĐ. UBND huyện An Hải cấp lại GCNQSDĐ ghi chính xác về tên người được sử dụng, nhưng áp dụng hướng dẫn của thành phố ghi thêm dòng "trong đó có 200 m2 đất ở, 265 m2 đất vườn tạp". Đến năm 2005, toàn bộ diện tích đất của gia đình ông Kếm bị thu hồi phục vụ Dự án Khu đô thị mới Ngã Năm-sân bay Cát Bi. Căn cứ theo GCNQSDĐ của ông Kếm, Hội đồng bồi thường giải phóng mặt bằng tính toán mức bồi thường 200 m2 đất ở với giá 3,2 triệu đồng/m2. Số diện tích còn lại, hộ ông Kếm chỉ được bồi thường hỗ trợ theo đất "vườn tạp" với giá từ 672 đến 960 nghìn đồng/m2 theo từng tuyến. Do vậy, ông Kếm liên tục khiếu nại đến Hội đồng giải phóng mặt bằng, nhưng không được hướng dẫn và giải quyết thỏa đáng. Quá mệt mỏi vì phải gửi đơn từ đến các cơ quan chức năng, ông Kếm than thở: “Biết thế này cứ để tên sai như GCNQSDĐ cấp năm 1995, thì gia đình đâu đến nỗi vất vả, thiệt thòi như bây giờ”. Không riêng gì ông Kếm, trên địa bàn phường Đằng Lâm (quận Hải An) còn nhiều trường hợp tương tự. Trong đó có cả một cán bộ lãnh đạo ở UBND phường Đằng Lâm khi được cấp GCNQSDĐ quyền sử dụng đất ở do cha ông để lại, đến nay bị thu hồi phục vụ dự án cũng chỉ được bồi thường 200 m2 đất ở, diện tích đất còn lại chỉ được bồi thường theo đất “vườn tạp”, tương tự như đất sản xuất nông nghiệp. Một trường hợp khác ở quận Lê Chân mua được 5 suất đất ở, khi hợp nhất lại thành một GCNQSDĐ, bỗng dưng chỉ còn 200 m2 đất ở, diện tích đất còn lại được ghi thành đất vườn tạp. Đến đầu năm 2008, gia đình đề nghị được đính chính lại GCNQSDĐ cấp toàn bộ là đất ở, phải mất nhiều khâu xác nhận của nhiều cấp, ngành mới được giải quyết.
Tìm hiểu việc cấp GCNQSDĐ trong thời gian qua cho thấy người dân như được “ban phát”, chứ không có thực quyền. Bởi lẽ, các trường hợp có khiếu nại đều được trả lời nếu họ không chấp nhận khi diện tích đất vượt quá 200 m2 là vườn tạp, thì không được giải quyết (!)
(Còn nữa)