Công đức ấy của ông được Nhà nước và Giáo hội trân trọng ghi nhận, trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập hạng nhì; Huân chương đại đoàn kết dân tộc; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và Bằng tuyên dương công đức của Giáo hội.
Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, thế danh là Bùi Văn Chước (tức Bùi Văn Quý), sinh năm 1917, trong gia đình có cha và mẹ đều là Phật tử tại xã Phùng Thiện, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Ông là con thứ 2 trong gia đình có 3 anh em.
Năm 1925, khi lên 9 tuổi, ông xuất gia tại chùa Phúc Long, xã Khánh Phú, tỉnh Ninh Bình. Năm 13 tuổi, ông được sư trụ trì cho đến chùa Dương Phạm (xã Khánh Khê, huyện Nghĩa Hưng nay là huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định). Năm 16 tuổi, ông đến ở chùa Đống Cao (huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định).
Năm 18 tuổi, ông được kế đăng trụ trì Tổ đình Viên Minh, xã Tầm Khê, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông (nay là xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, Hà Nội). Tròn 20 tuổi, ông được thụ Cụ Túc giới và Bồ Tát giới tại Đại giới đàn chùa Bút Tháp, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh do Sư tổ Thích Quảng Tốn làm Đàn đầu Hòa thượng.
Sau khi giới pháp đầy đủ, ông sam học ở hầu hết các Sơn môn lớn thời bấy giờ như Sơn môn Tê Xuyên, Sơn môn Hương Tích...
Từ năm 1952, ông hành đạo tại chùa Linh ứng (huyện Kiến Thụy, Thành phố Hải Phòng). Đến năm 1957, ông trở về Tổ đình Viên Minh (Hà Nội).
Năm 1961, Sư tổ Thích Quảng Tốn, Trụ trì đời thứ hai Tổ đình Viên Minh viên tịch, ôngi kế đăng làm trụ tri đời thứ ba Tổ đình Viên Minh và làm Trưởng Sơn môn Đa Bảo từ đó cho đến nay.
Đến năm 1987, Đức Đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) cử ba vị cao tăng là cố Hòa thượng Thích Kim Cương Tử, cố Hòa thượng Thích Thiện Siêu và Cố Hòa thượng Thích Tâm Thông về Tổ đình Viên Minh mời ông lên Hà Nội chủ trì hiệu đính Đại tạng kinh Việt Nam và tham gia các hoạt động Phật sự của Giáo hội.
Từ đó, Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tu đảm nhiệm nhiều chức vụ trong các cấp Giáo hội: Trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Hà Tây (1993 - 2008); Hiệu trưởng Trường Trung cấp Phật học Hà Tây (1993 - 2008); Ủy viên Kiêm soát Hội đông Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự GHPGVN (1997 - 2007); Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội (2003 - 2007); Tổng Biên tập tạp chí Nghiên cứu Phật học (2003 - 2007); Phó Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương GHPGVN; Phó ban Ban Tăng sự Trung ương GHPGVN (1997 - 2007); Phó Pháp chủ kiêm Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2002 - 2007).
Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Toàn quốc lần thứ VI (2007), Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tu được Đại hội suy tôn ngôi vị Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN, trở thành Pháp chủ thứ ba của GHPGVN. Trải qua các nhiệm kỳ Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ VII (2012), VIII (2017), Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tu uôn được Đại hội suy tôn ngôi vị Thiền gia Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tu cũng nhiêu năm liền giữ ngôi vị Đường chủ của các trường hạ tại Hà Nội, Hưng Yên... cũng như ngôi Đàn đầu Hòa thượng trong rất nhiều Đại Giới Đàn tại các tỉnh, thành phố.
Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tu còn tích cực tham gia tổ chức xã hội như: Ủy viên ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Hà Tây; ủy viên ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quôc Việt Nam (nhiều khoá).
Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tu là bậc cao Tăng thông tuệ am hiểu Tam tạng Thánh giáo, thông kim cổ và là người có những đóng góp không nhỏ trong việc biên soạn, dịch thuật và trước tác loạt tác phẩm về Phật học ở Việt Nam như: Đại Từ điển Phật học, Đề cương kinh Pháp Hoa, Kinh Bách Dụ, Phật Tổ tam kinh, Phật học là tuệ học, Kinh Di Đà Viên Trung sao, Bát Nhã Dư Âm, Luật Tỷ Khiêu Ni lược ký.
Ông cũng sáng tác một số bài thơ Đường luật, theo thể thất ngôn bát cú để sách tiến hàng hậu học như: Cỗ tết nhà Chùa và Cảnh chùa Viên Minh.
Đức Đại lão Hòa thượng Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã thu thần thị tịch vào hồi 3 giờ 22 phút ngày 21 tháng 10 năm 2021 (nhằm ngày 16 tháng 9 năm Tân Sửu) tại Tổ đình Viên Minh (chùa Giáng), xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Tấm gương trong sáng, hiền đức uy nghi của ông mãi mãi hằng hữu trên trang sử vàng Phật giáo Việt Nam thời hiện đại.