Con đường dẫn tôi đến nghề báo
Vào kỳ nghỉ hè năm 1966, tôi phải quyết định lặng lẽ giã biệt Hội An, giã biệt Trường trung học Trần Quý Cáp – ngôi trường của niềm tự hào, niềm mơ ước của lớp lớp học sinh quê tôi lúc bấy giờ - nơi tôi đang theo học, giã biệt bao bạn bè, người thân… Lúc ấy, Hội An là tỉnh lỵ Quảng Nam đang ngột ngạt bởi không khí chiến tranh. Những đồn bót, trại lính Mỹ-ngụy ngày càng dày, nơi xuất phát nhiều cuộc hành quân càn quét các vùng giải phóng lân cận, trong đó có quê tôi…
Vào kỳ nghỉ hè năm 1966, tôi phải quyết định lặng lẽ giã biệt Hội An, giã biệt Trường trung học Trần Quý Cáp – ngôi trường của niềm tự hào, niềm mơ ước của lớp lớp học sinh quê tôi lúc bấy giờ - nơi tôi đang theo học, giã biệt bao bạn bè, người thân… Lúc ấy, Hội An là tỉnh lỵ Quảng Nam đang ngột ngạt bởi không khí chiến tranh. Những đồn bót, trại lính Mỹ-ngụy ngày càng dày, nơi xuất phát nhiều cuộc hành quân càn quét các vùng giải phóng lân cận, trong đó có quê tôi…
![]() | |||
Ngày càng nhiều hơn những cuộc hành quân vây bắt của quân viễn chinh Mỹ từ Đà Nẵng vào, của quân ngụy từ Hội An ra, làng xóm quê tôi chiến tranh ngày càng ác liệt, nhà tôi vừa bị đốt cháy, thì tiếp đến anh trai tôi – Đinh Văn Mai hy sinh. Chưa hết, mấy tháng sau, giọt máu duy nhất còn lại của anh đã không thể chào đời vì một ca sinh khó! Cả nhà tôi cùng một nỗi đau quặn thắt!
Mẹ dẫn tôi chạy tránh những đợt quân địch vây lùng, tôi tỏ bày với mẹ ý nguyện muốn vào bộ đội thị xã để được trực tiếp cầm súng chiến đấu giết giặc trả thù cho cha, cho anh! Ngày lại ngày mẹ yên lặng, dẫn tôi tránh những trận càn quét, vượt qua nhiều hiểm nguy hơn và cứ thế tôi đã được thử thách, luyện rèn.
Đầu năm 1967, vào một đêm tối trời sau Tết Đinh Mùi, mẹ tiễn tôi đến bến đò Ba Giác (An Bàng, Cẩm An) và dặn: "Con ra đi hữu thân, hữu khổ, phải cố gắng để nên người". Và tôi hiểu giờ mẹ phải cắt núm ruột mình để trao đứa con trai cuối cùng cho cách mạng. Theo giao liên đêm đi, ngày nghỉ, tôi cùng 3 người bạn cùng quê là Lê Nhành, Phạm Lý, Phạm Thông được đưa về Ban Tuyên huấn Quảng Đà đang đóng ở xã Lộc Thành, nay là Đại Thạnh (vùng B Đại Lộc) vài ngày sau, tiếp tục sang phà Hà Nha (vùng A) vượt dốc An Định để vào biên chế của Nhà in Giải phóng Quảng Đà đang đóng ở một vùng núi gần làng Phú Bảo – huyện Hiên.
Đồng chí, đồng đội với tình cảm cách mạng chân thành, tạo điều kiện cho tôi phấn đấu rèn luyện trong môi trường tập thể của thời chiến tranh gian khổ và ác liệt gần chục năm ròng. Trong bộn bề kỷ niệm vui, buồn của những năm tháng chiến tranh gian khổ và ác liệt, là công nhân Nhà in Giải phóng Quảng Đà, tôi đã nhiều lần phải thức dậy từ rất sớm, mang theo súng, cơm vắt và muối hầm, đi bộ cả một buổi đường rừng, vượt dốc cao, suối sâu băng qua khu vực thường có "Mỹ lết" để đến Ban Tuyên huấn nhờ anh Hồ Hải Học, hoặc anh Nguyễn Đình An cắt bớt chừng hơn 30 chữ nội dung bài xã luận vì khi sắp chữ lên khuôn theo ma-két bị thừa mà khâu xử lý kỹ thuật tại nhà in thì đã "hết cách"! Những chuyến đi như thế đâu chỉ có mất thời gian, cơ bắp, mồ hôi mà đôi khi phải hy sinh cả máu!
Sau giải phóng 1975, từ nhà in báo tôi được chuyển về Báo Quảng Nam-Đà Nẵng. Đang yên tâm với nhiệm vụ Tổ chức-trị sự cơ quan, bỗng dưng tôi được chuyển sang làm phóng viên tập sự. Bài báo đầu tiên tôi viết được đăng là câu chuyện cảnh giác có tít đề "Chuyện bất ngờ của một vụ án". Nội dung bài báo kể lại việc một anh cán bộ bị mất chiếc xe đạp hiệu "Phượng Hoàng" mang từ miền Bắc về (nó là phương tiện, tài sản quý hiếm lúc bấy giờ". Thủ phạm là một bé gái lang thang ăn xin ở khu vực chợ Cồn, Đà Nẵng.
Nhưng rồi, sau 2 năm đi học lớp quản lý kinh tế nông nghiệp trở về, những bài báo tiếp theo tôi thích viết nông nghiệp và đời sống nông thôn, vì tôi sinh ra, lớn lên ở nông thôn. Tham gia kháng chiến chống Mỹ chín năm liền lặn lội vùng nông thôn, rừng núi quê hương đất Quảng, tôi nghĩ mình có thể xâm nhập nông thôn, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn của người nông dân khi xây dựng hợp tác xã, khi phong trào hợp tác hóa nông nghiệp đang sôi động ở tỉnh nhà. Tôi mang nặng tình cảm với bà con nông dân, hiểu và tin yêu họ.
Đến nay, hơn 30 năm theo nghề, làm một anh nhà báo tỉnh lẻ, tôi không nhớ đã viết bao nhiêu bài báo của nhiều thể loại, những nhọc nhằn gian khổ mình đã trải qua. Nhưng có một điều chắc chắn là đề tài về nông nghiệp chiếm số nhiều. Chiêm nghiệm lại, tôi thấy nghề này đúng là một nghề đầy nguy hiểm khi người viết quyết tâm đi tìm sự thật, bảo vệ công lý, nhất là khi viết các phóng sự điều tra chống tham ô, tham nhũng. Tôi đã có lần bị đối tượng tiêu cực hăm dọa, đuổi đánh và bi hài hơn nữa rơi vào tình cảnh như con cá nằm "trên thớt, dưới dao"! Thế nên tôi nghĩ làm báo ít nhiều phải có "khiếu" và có sự gan dạ, lòng tin, sự dấn thân. Trong khiếu này có cả khối óc, đôi mắt nhìn xa vấn đề cần viết, thấy được những điều nên và không nên viết, biết rung cảm trước cái hay, cái đẹp… cái "khiếu" đó là trời cho, nhưng cũng có phần do mình biết tích lũy dần dần tạo thêm ra.
Làm báo là phải yêu nghề và lao động hết mình, phải có sự khổ công rèn luyện. Là người làm báo chủ yếu bằng con đường tự học, tự đào tạo, lòng yêu nghề đã thôi thúc tôi mày mò, tìm kiếm những cái mới qua báo chí, sách vở. Đi nhiều, nghĩ nhiều, cố gắng viết nhiều, dù tôi viết chậm. Người ta bảo: "Thức đêm mới biết đêm dài" nhưng tôi thì nhiều lần ngồi viết thâu đêm và lo sợ trời sáng khi bài viết chưa xong! (chưa nói còn phải chép lại thêm một bản để lưu) vì lúc đó photocopy chưa rộng rãi như bây giờ! Được cùng nhà báo kỳ cựu Tạ Xuân Linh theo dõi mảng nông-lâm-thủy lợi, tôi đã học ở anh sự "tự thân vận động" lao vào cuộc sống, chịu khó học, khai thác tư liệu đến cách hành văn, dùng ngôn ngữ, chi tiết… Thấy ở mục "Người thăm đồng" do anh phụ trách nhiều bạn đọc yêu thích, tôi mạnh dạn thử sức mình với các tít bài: "Thủy lợi hóa… thủy hại"; "Khu đất hình dấu ?", hay "Ăn quả nhớ người trồng cây…" lời văn ngắn gọn, chân thực, dí dỏm đã được đăng và bạn đọc cứ tưởng đó là của anh. Còn tôi thì lại mừng vui. Chịu khó viết, viết bằng sự rung cảm trái tim. Cùng chia sẻ cái lo của nhà nông khi cây lúa gặp phải thời tiết rét lạnh kéo dài. Lúc gánh chịu nắng hạn thiếu nước và gió tây nam khô nóng, hoặc khi mưa lũ ngập đồng… Bạn đọc sẽ tìm đọc khi nhà báo đã tạo cho mình một dấu ấn cá nhân qua từng tác phẩm báo chí.
Tôi hằng tâm niệm sống chân thật với mọi người. Bởi cuộc sống có nhiều điều quan trọng hơn điều kiện sống rất nhiều. Tôi không từ chối cuộc sống sang trọng, nhưng tôi đã trải qua những thời kỳ khó khăn đủ để có thể chấp nhận và vượt qua những điều kiện khó khăn tương tự sẽ xảy ra. Theo nghề báo yêu cầu đó càng bức thiết hơn. Bởi chỉ có chân thực với đồng chí, với bạn bè đồng nghiệp…đoàn kết, gắn bó thì mới nhận được sự tin cậy, quý mến của họ, sẽ được họ cung cấp những tài liệu thật, để trong quá trình tác nghiệp tránh được những méo mó sai lệch, để được sống trọn vẹn với nghề, để hoàn thành trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ của một công dân.
ĐINH VĂN MÃNH
