Con chồng đòi công lý cho "mẹ ghẻ"

Bỏ qua tất cả những lời đàm tiếu, bà Ngà chỉ hết lòng hết sức chăm sóc chồng con, gia đình của người chị gái. Có những lúc lắng lại lòng mình, bà cảm thấy biết bao trớ trêu cay đắng. Bi kịch đời bà là: “Được lúa, lúa đã gặt bông. Được cải, cải đã chặt ngồng làm dưa”, đã nếm đủ nỗi xót xa, không ngờ đến cuối đời lại bị người chị ruột kiện ra Tòa!

Bỏ qua tất cả những lời đàm tiếu, bà Ngà chỉ hết lòng hết sức chăm sóc chồng con, gia đình của người chị gái. Có những lúc lắng lại lòng mình, bà cảm thấy biết bao trớ trêu cay đắng. Bi kịch đời bà là: “Được lúa, lúa đã gặt bông. Được cải, cải đã chặt ngồng làm dưa”, đã nếm đủ nỗi xót xa, không ngờ đến cuối đời lại bị người chị ruột kiện ra Tòa!

Thương cháu, mang duyên nợ

Vụ án là câu chuyện dài về tình duyên éo le của hai chị em ruột - bà Nguyễn Thị Ngọc (66 tuổi) và Nguyễn Thị Ngà (61 tuổi).

dsbgd
Một ông hai bà

Bà Ngọc kết hôn với ông Hoàng Văn Khang vào năm 1970, hai người có bốn người con. Năm 1981, bà Ngọc đi xuất khẩu lao động ở Cộng hòa Séc (Tiệp Khắc cũ) thời hạn 3 năm. Hết thời gian gia hạn thêm nhưng bà Ngọc vẫn không về nước. Thương các cháu ốm đau nheo nhóc, thương anh rể gà trống nuôi con, bà Ngà đã tự nguyện đến ở chăm sóc các cháu ruột.

Thực lòng, khi đó bà Ngà vẫn nghĩ rằng chỉ vài năm rồi chị gái sẽ trở về. Thời điểm đó các nước Đông Âu tan rã, nên bà Ngà và mọi người cố nán lòng chờ đợi thêm thời gian. Qua những người bạn đi cùng đợt với bà Ngọc đã trở về đoàn tụ gia đình, gia đình được biết bà Ngọc không trở về mà đã di tản sang CHLB Đức làm ăn, định cư bên đó.

Tuy vậy, bà Ngà vẫn hy vọng chị trở về, bà mong mỏi điều đó không chỉ cho các cháu mà còn mong mỏi cho riêng mình nữa. Vì khi đó bà đã ngấp nghé vào cái ngưỡng gái ba mươi - cái tuổi bên bờ vực quá lứa lỡ thì, hơn lúc nào hết bà khát khao có một mái ấm gia đình như bao bạn bè cùng trang lứa.

Thời gian vụt trôi mang đi thời tuổi trẻ, bà Ngà chỉ biết đầu tắt mặt tối với việc nâng giấc lũ trẻ, thu vén chăm sóc cho ông Khang và gia đình. Lửa gần rơm, tấm lòng của người em vợ khiến ông Khang vô cùng cảm kích, nhưng bà Ngà vẫn e dè lo lắng vì sợ mang tiếng cướp chồng của chị.

Thiên hạ mát mẻ rằng cứ như bà Ngà lại hay, vừa có chồng con đề huề lại được tiếng là có lòng bao dung nhân ái. Bỏ qua tất cả những lời đàm tiếu, bà Ngà chỉ hết lòng hết sức chăm sóc chồng con, gia đình của người chị gái. Có những lúc lắng lại lòng mình, bà cảm thấy biết bao xót đắng. Tình cảnh của bà: “Được lúa, lúa đã gặt bông. Được cải, cải đã chặt ngồng làm dưa” - nhưng nào có mấy ai thấu hiểu.

Rồi đột ngột bà Ngọc trở về, sau mấy chục năm phiêu bạt xứ người. Bà Ngọc khác hẳn với người em gái, từ dáng vẻ, trang phục đến tính tình. Trông bà Ngà đúng là một bà lão nông dân thô ráp cục mịch, kiệm lời bao nhiêu thì bà Ngọc quý tộc, đài các và khéo léo bấy nhiêu. Bỏ bẵng chồng con đi biệt tăm xa xứ chừng ấy năm, không một hồi âm, không lời giải thích thế mà khi trở về, bà Ngọc vẫn làm như chưa hề xảy ra những chuyện đó.

Cứ trông cái cách bà ta ngọt ngào âu yếm vuốt lại cổ áo cho ông Khang, rồi ân cần mở chai nước đưa tận miệng cho chồng khiến bất cứ người đàn ông nào cũng phải mềm lòng.

Ông Khang nghiễm nhiên có hai người vợ; và cũng như những người đàn ông tham lam khác, ông rất sung sướng vì điều đó. Chỉ có bà Ngọc tỏ ra vô cùng khó chịu, bà tìm cách đẩy em gái ra khỏi cửa nhưng vì bà Ngà ốm yếu, bệnh tật nên không đi. Những người con biết chuyện cũng khuyên ngăn bà Ngà ở lại. Tức tối, bà Ngọc kiện em gái tranh chấp chồng với mình.

Con chồng đòi công lý cho dì

Tòa phân tích: Ông Khang và bà Ngà chung sống với nhau thời gian mấy chục năm có lẻ, có tài sản chung, lẽ ra hai người phải làm thủ tục yêu cầu tuyên bố bà Ngọc mất tích để đăng ký kết hôn thì mới được coi là hôn nhân hợp pháp. Trước đó, ông Khang và bà Ngọc đã đăng ký kết hôn nên việc bà Ngọc quay về kiện đòi chồng, về mặt pháp lý, yêu cầu của bà Ngọc là chính đáng.

Tuy nhiên, xét thực tế bà Ngà không có tranh chấp trong cuộc hôn nhân này, mặt khác bà Ngọc và bà Ngà lại là chị em gái nên để hai người giải quyết ổn thỏa với nhau. Riêng về phần tài sản, bà Ngà có công đóng góp xây dựng khối tài sản chung gia đình, giờ bà Ngọc trở về thì bà Ngà có ý kiến thế nào? Khi được hỏi, bà Ngà thủng thẳng trả lời: “Mơ ước lớn nhất của đời tôi là lo cho các cháu tôi khôn lớn thì tôi cũng toại nguyện rồi. Giờ tôi không chồng không con, thì cần chi tài sản! Vậy nên tôi chẳng có nguyện vọng gì cả!”.

Trái với thái độ sung sướng, hài lòng của mẹ đẻ, những người con của bà Ngọc không đồng tình. Họ bảo, dù bà Ngà không đỏi hỏi nhưng họ vẫn đề nghị Tòa phải phân xử công bằng cho dì ruột, cũng là mẹ kế của họ. Bà Ngọc là người có công sinh ra anh em họ nhưng người có công nuôi dưỡng họ từ khi trứng nước đến lúc trưởng thành lại chính là bà Ngà nên họ không đồng ý để bà Ngà phải ra đi tay trắng khi đã già cả và bệnh tật.

“Xin tòa phân chia tài sản xứng đáng với công sức đóng góp để trả lại công bằng cho dì tôi. Dù dì tôi không muốn, dù bản thân anh em chúng tôi thừa sức lo cho dì tôi đến hết đời nhưng điều chúng tôi cần là đòi sự công bằng cho dì!” - họ nói.

Sau khi hòa giải, cuối cùng các đương sự không phải nhờ Tòa phân chia tài sản nữa, vì họ thống nhất phương án bà Ngà vẫn ở cùng với ông Khang, bà Ngọc. Không ai thắc mắc cảnh “một ông hai bà” vì tất cả họ đều có tuổi, sống chung như thế chỉ để tiện chăm sóc nhau mà thôi.

Điều này khiến ông Khang và các con rất mừng, bà Ngọc có vẻ vẫn không hài lòng; riêng bà Ngà thì chỉ im lặng. Không ai biết lúc này trong tim bà mẹ kế đang nghĩ gì? Nhưng tình cảnh của bà chợt khiến người ta nhớ đến câu thơ về tình chị duyên em đắng xót lòng người: “Chị thản nhiên mối tình đầu. Thản nhiên em nhặt bã trầu về têm...”./.

Nguyễn Lê