Có một Tây Hồ làm nao lòng tao nhân mặc khách
(PLVN) - Được mệnh danh là “viên ngọc quý” giữa lòng Hà Nội, Hồ Tây không chỉ lưu giữ những giá trị lịch sử, văn hóa đặc sắc mà còn sở hữu nhiều danh thắng lưu lại trong các thi phẩm. Đó là Bến trúc Nghi Tàm, Rừng bàng Yên Thái, Đàn thề Đồng Cổ, Tượng Phật say Thụy Chương, Sâm cầm Hồ Tây, Cánh đồng hoa Nghi Tàm, Làng Khán Xuân, Tiếng đàn Hành cung - 8 thắng cảnh từng được các tao nhân mặc khách của kinh thành Thăng Long xưa tôn vinh.
Nhớ về “Tây Hồ bát cảnh”
Vào khoảng giữa thế kỷ 17, những trang thư tịch cổ đã phác họa cảnh sắc Thăng Long xưa như những bức tranh sơn thủy hữu tình, đầy thi vị. Cảnh đẹp ấy không chỉ được công nhận qua đôi mắt của các thi nhân Thăng Long - Hà Nội, mà bất cứ tao nhân mặc khách nào khi ghé thăm nơi đây cũng đều có những rung cảm riêng, đến mức muốn đưa vào thi ca.
Đặc biệt, khi nhắc đến đất Thăng Long, không thể không nhắc đến cảnh đẹp Hồ Tây. Được mệnh danh là “viên ngọc quý” giữa lòng Hà Nội, Hồ Tây không chỉ lưu giữ những giá trị lịch sử, văn hóa đặc sắc mà còn sở hữu nhiều danh thắng lưu lại trong các thi phẩm. Tiêu biểu trong số đó là “Tây Hồ bát cảnh” - tập thơ bằng chữ Hán của Lê Vĩnh Hựu thế kỷ 18, được sáng tác nhằm tôn vinh 8 cảnh đẹp của Tây Hồ.
Ngay từ tên gọi của thi phẩm, người đọc đã có thể hình dung về 8 thắng cảnh làm say đắm lòng người xung quanh vùng đất Tây Hồ. Đó là Bến trúc Nghi Tàm, Rừng bàng Yên Thái, Đàn thề Đồng Cổ, Tượng Phật say Thụy Chương, Sâm cầm Hồ Tây, Cánh đồng hoa Nghi Tàm, Làng Khán Xuân, Tiếng đàn Hành cung. Những cảnh sắc đó trở thành chất men say thấm vào tâm hồn thi nhân, để rồi được gửi gắm trọn vẹn trong từng câu thơ.
Điểm đầu tiên được nhắc đến trong thi phẩm là Bến trúc Nghi Tàm, chỉ làng Nghi Tàm xưa. Thuở trước, xung quanh làng có trồng giống trúc đằng ngà - một loại trúc có thân màu vàng óng. Từ xa nhìn lại trông như một rừng trúc có hàng ngàn, hàng vạn cây đứng trước gió, phản chiếu ánh sáng vàng rợp một góc trời. Chính tại nơi này, chúa Trịnh Giang đã cho mở một bến tắm để hàng năm vào mùa hè cùng các cung nữ tắm mát và nghỉ ngơi.
Cũng trên bờ Hồ Tây, thuộc làng Yên Thái có một núi đất cao 400 - 500 thước, rộng chừng một mẫu được chúa Trịnh Giang cho trồng nhiều cây bàng để lấy bóng râm nghỉ mát. Đứng từ trên cao phóng tầm mắt xuống sẽ thấy hàng ngàn, hàng vạn cây, cây nào cũng tỏa ra cành lá xum xuê, sắc lá thay đổi theo mùa. Nhìn từ xa như những chiếc lọng đỏ, lọng xanh vô cùng đẹp mắt. Người dân quanh đây quen gọi khu vực này là rừng bàng và cũng từ đó ra đời cái tên Rừng bàng Yên Thái - thắng cảnh thứ hai trong “Tây Hồ bát cảnh”.
Thắng cảnh thứ ba là Đàn thề Đồng Cổ trước cửa đền Đồng Cổ trên bờ hồ thuộc làng Thụy Chương, dưới thời Lý Thái Tông. Đàn thề được xây hai tầng, tầng trên thờ thần, tầng dưới vua ngự. Mỗi năm hai kỳ xuân - thu, nhà vua ra đó cử hành lễ tế rồi hạ lệnh trăm quan văn võ đứng trước đàn thề rằng: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, bất hiếu bất trung, thần minh giết chết”. Về sau, đàn thề trở thành nơi sinh hoạt cộng đồng. Người dân, đặc biệt là nam thanh, nữ tú thường lui tới trước đàn thề nguyền, cầu xin thần linh chứng giám cho lòng chung thủy của mình.
Cùng với Đàn thề Đồng Cổ, Tượng Phật say làng Thụy Chương cũng được đem vào thơ ca. Tương truyền vào thời Lê Trung Hưng, phía trước làng Thụy Chương có một ngôi chùa nhỏ ở bên hồ bị đổ, chỉ còn sót lại một pho tượng Phật với dáng đứng đặc biệt: tay chống gậy, chân có vẻ bước liêu xiêu như muốn ngã. Vốn nổi tiếng với nghề nấu rượu ngon, một hôm Trạng Quỳnh ghé làng Thụy Chương mua rượu, nhân tiện vào thăm tượng Phật có làm đùa mấy câu thơ: “Ông đứng chi mà đứng mãi đây?/Dập dềnh như tỉnh lại như say?/Vãi nào đã chuốc cho ông rượu?/Còn có cho vay một nậm đầy”. Từ câu chuyện trên, cái tên Phật say làng Thụy Chương ra đời, mỗi tháng hai kỳ khách thập phương thi nhau mang rượu đến lễ.
Cứ vào khoảng tháng Một, tháng Chạp và tháng Giêng ở Hồ Tây lại có từng đàn hàng trăm, hàng nghìn con chim sâm cầm từ đâu bay đến, tạo nên khung cảnh “sâm cầm rợp bóng” đặc trưng của mùa đông Hồ Tây. Người xưa cho rằng đây là loài chim từ phương Bắc di cư xuống để tránh rét và chỉ ăn củ sâm nên thịt rất bổ dưỡng. Vì vậy, nghề săn bắt sâm cầm từng trở thành sinh kế của các làng xung quanh hồ. Là một trong những khoảnh khắc đẹp nhất của Hồ Tây trong những ngày đông đã khiến Sâm cầm Hồ Tây được xếp vào “Tây Hồ bát cảnh” nổi tiếng.
Tiếp đến là Cánh đồng hoa Nghi Tàm, từ xa xưa, những làng ở dọc bên hồ đều trồng hoa để bán nhưng chỉ có đồng bông ở trước chùa Kim Liên, làng Nghi Tàm là nhiều hoa đẹp và thơm nhất. Hoa nơi đây đã được chọn làm hoa tiến vào Phủ Chúa và Cung Vua. Với hương sắc độc đáo, Cánh đồng hoa Nghi Tàm là một trong những thắng cảnh thu hút các tao nhân mặc khách đến với Tây Hồ.
Cùng với đó còn có Làng Khán Xuân nằm ở bờ phía Nam Hồ Tây. Vào thời chúa Trịnh Giang, nơi đây lập một ly cung cùng những dãy nhà như quán hàng ở xung quanh, để hàng năm vào mùa hè ra đó nghỉ mát. Đêm đến, nội thần và cung nữ mở chợ bày hàng mua bán, hát xướng làm vui. Những đêm mở chợ, Làng Khán Xuân lại sáng rực một góc, trở thành hoạt cảnh ấn tượng trong kinh thành Thăng Long.
Cuối cùng, Tiếng đàn Hành cung là thắng cảnh thứ tám của Tây Hồ, gắn với hành cung của chúa Trịnh từng đặt tại chùa Trấn Quốc. Tương truyền, khi hành cung không còn được sử dụng, một số cung nữ vẫn ở lại trông nom chùa, trong đó có một cung nữ họ Hà nổi tiếng với tài đàn. Đêm khuya, nàng thường gảy đàn gửi gắm tâm tư, tình cảm. Tiếng đàn da diết xúc động lòng người, trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều thi nhân khi đến vãn cảnh Hồ Tây.
Từ huyền thoại đến đương đại
Có thể nói, tám thắng cảnh vùng Tây Hồ được nhắc đến trong “Tây Hồ bát cảnh” không chỉ cho thấy vẻ đẹp của những vùng danh thắng Thăng Long xưa, mà còn khắc họa chiều sâu văn hóa, phong tục của người dân nơi đây. Mỗi địa danh là một lớp ký ức, nơi lưu giữ dấu ấn lịch sử và những câu chuyện gắn liền với đời sống cung đình, chốn dân gian hay nghi lễ truyền thống. Chính sự hòa quyện giữa những giá trị đặc sắc đã tạo nên sức hấp dẫn bền lâu của Tây Hồ, khiến vùng đất này trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thi nhân qua bao thế hệ. Nhờ đó, Tây Hồ càng trở nên gắn bó và mang ý nghĩa sâu đậm đối với Thăng Long - Hà Nội.

Mang nhiều giá trị đặc sắc là vậy nhưng trước những biến động của lịch sử và thời gian, “Tây Hồ bát cảnh” giờ đây chỉ còn lại trong những trang thư tịch cổ. Những Bến trúc Nghi Tàm, Rừng bàng Yên Thái, Sâm cầm Hồ Tây hay Làng Khán Xuân… hầu như không còn dấu tích, để lại trong lòng hậu thế nhiều bùi ngùi, tiếc nuối về một vùng cảnh sắc từng vang danh một thời.
Dẫu vậy, giá trị tinh thần mà “Tây Hồ bát cảnh” mang lại vẫn không hề mai một. Những thắng cảnh ấy, dù không còn hiện diện giữa đời sống hôm nay, vẫn sống động trong văn chương, trong âm hưởng của thơ ca và trong niềm tự hào về văn hóa Thăng Long - Hà Nội. Chính những câu chuyện và hình ảnh về huyền thoại ấy đã truyền cảm hứng cho công tác bảo tồn và phát huy giá trị cảnh quan, văn hóa của Tây Hồ đương đại.
Hiện nay, vùng đất này vẫn lưu giữ nhiều di tích, danh thắng bậc nhất của Thăng Long như chùa Tảo Sách, chùa Trấn Quốc, chùa Kim Liên, phủ Tây Hồ… Những địa danh là dấu ấn của lịch sử nghìn năm văn hiến, góp phần hình thành “con đường di sản” đặc trưng của mảnh đất Kinh kỳ. Cũng trong không gian đó, mỗi ngôi làng lại có vẻ đẹp văn hóa riêng, gắn với nghề truyền thống từ xa xưa hay phong tục lâu đời đậm chất Hà Nội xưa. Và chính sự tiếp nối bền bỉ ấy khiến Tây Hồ hôm nay không chỉ đơn thuần là một địa danh du lịch, mà còn là không gian ký ức Thăng Long - Hà Nội, nơi lưu giữ tình cảm của bao thế hệ người Hà Nội.