Cơ hội để thử sức mình và tích lũy kinh nghiệm
Mạnh mẽ, thẳng thắn, tâm huyết với công việc là ấn tượng tức thời trong tôi ngay từ lần gặp đầu tiên với bà Daniela Schrudde (Da-nil), người vừa thay Tiến sĩ Rosi Stenkei làm Giám đốc Dự án Bảo tồn Voọc Cát Bà.
Cảm phục hơn trước những băn khoăn trăn trở của bà về công việc, kế hoạch bảo tồn loài động vật quý hiếm này khỏi mối đe doạ tuyệt chủng. Đó cũng là nội dung cuộc phỏng vấn Giám đốc Da-nil dành cho Báo Hải Phòng.
- Thưa Giám đốc Da-nil, được biết bà từng tham gia các dự án bảo tồn động vật quý hiếm ở Namibia, Uganda, Hy Lạp, Ấn Độ với điều kiện làm việc rất thuận lợi. Vậy, điều gì đưa Giám đốc đến Việt
- Với tôi, được góp phần bảo tồn, phát triển loài voọc Cát Bà trước hết đó là sự thú vị riêng. Đây là cơ hội lớn để biến giấc mơ được đảm nhận trọng trách gánh vác một dự án bảo tồn động vật hoang dã thành sự thật và được chứng tỏ năng lực của mình. Chúng ta đều biết, voọc Cát Bà là một loài động vật quý hiếm, và chỉ còn rất ít cá thể còn tồn tại ở một nơi duy nhất, đó là Cát Bà. Tôi đến đây tham gia công việc bảo tồn vì số phận của loài này đang ở tình trạng cực kỳ nguy cấp và cần được bảo vệ nghiêm ngặt. Mặt khác, trong tương lai, Dự án sẽ mở rộng hơn những nghiên cứu chuyên sâu về loài voọc Cát Bà bởi vì, để bảo vệ tốt hơn, chúng ta cần hiểu biết về chúng đầy đủ hơn. Một khi người dân hiểu về loài voọc, họ sẽ tự hào về loài vật đặc biệt này và sẵn sàng bảo vệ chúng. Dự án đang triển khai bảo vệ quần thể, sinh cảnh sống của loài voọc, bởi đảo Cát Bà có sự đa dạng sinh học cao nên nguy cơ và mức độ tổn thương lớn. Bảo vệ loài voọc không thể tách rời với bảo vệ những quần thể động, thực vật khác.
- Giám đốc kế thừa gì từ đồng nghiệp đi trước và sẽ tiếp tục bảo tồn loài voọc Cát Bà như thế nào?
- Người tiền nhiệm của tôi, Tiến sĩ Rosi Stenke, cũng là một người Đức, từng rất thành công trong thời gian triển khai dự án ở đây. Từ 53 cá thể năm 2000, hiện loài voọc Cát Bà phát triển lên đến khoảng 60 - 70 cá thể. Sáng kiến tuyển chọn người gác voọc của TS. Stenke được chúng tôi tiếp tục thực hiện nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức của người dân, hạn chế săn bắt, bẫy động vật hoang dã trong Khu Dự trữ Sinh quyển để bảo vệ loài voọc. Thúc đẩy cộng đồng dân cư sinh sống trên đảo tham gia bảo vệ voọc, hỗ trợ thành lập và quản lý các Câu lạc bộ (CLB) Bảo vệ rừng các xã, thị trấn tuyển chọn người gác voọc từ đội ngũ thợ săn trước kia. Người gác voọc là người dân ở các xã vốn dựa vào rừng nhưng có kinh nghiệm săn bắn và do đó hiểu về cuộc sống, sự di chuyển của đàn voọc và biết cách làm thế nào để bảo vệ chúng.
Bước đầu, chúng tôi đã có quan hệ rất tốt, đầy thiện chí và trách nhiệm với Vườn quốc gia Cát Bà, lực lượng kiểm lâm và chính quyền địa phương. Việc tham gia của cộng đồng rất quan trọng, tôi và Ban Giám đốc dự án không thể làm được gì nếu không có sự phối hợp tốt với các ngành liên quan và nhất là cộng đồng dân cư chung quanh đảo Cát Bà. Ngoài việc thành lập Câu lạc bộ Bảo vệ rừng ở các xã, thị trấn, tuyên truyền qua hệ thống loa truyền thanh, từ tháng 7-2008, dự án triển khai chương trình giáo dục tại nhà, trực tiếp đến từng nhà tuyên truyền người dân từ bỏ thói quen đi rừng hoặc tham gia vào CLB. Mạng lưới của chúng tôi có khoảng 200 người, gồm lực lượng kiểm lâm, người gác voọc, Tổ bảo vệ rừng, các CLB. Mạng lưới phủ khắp Cát Bà, phân chia vùng hoạt động giữa các nhóm. Không chỉ vậy, chúng tôi còn đồng thời hướng đến đối tượng khách du lịch vì chính nhu cầu tiêu thụ thịt thú rừng của họ đã góp phần thúc đẩy nạn săn bắn. CLB thị trấn Cát Bà có nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát các hành vi buôn bán tất cả các loài động vật hoang dã trên địa bàn.
- Đâu là khó khăn lớn nhất, thưa Giám đốc ?
- Trước hết, đó là việc làm thế nào để nối liền các đàn voọc trên đảo Cát Bà để chúng có thể gặp gỡ, sinh sản và phát triển. Trên thực tế, quần thể vẫn đang bị phân tán rải rác. Hiện có 7 tiểu quần thể, nhưng số lượng cá thể trong một tiểu quần thể ít hoặc chỉ toàn cá thể cái nên rất khó để sinh sản và phát triển đàn voọc.
Tạo ra mối liên lạc giữa các tiểu quần thể không dễ bởi hoạt động du lịch, giao thông, triển khai các dự án ngày càng phát triển, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sống của loài voọc, chia cách ngày càng xa hơn giữa các tiểu quần thể. Mặt khác, việc săn bắt, bẫy động vật hoang dã vẫn diễn biến phức tạp, đe doạ đến sự tồn vong của loài voọc. Đáng mừng là hiện đã có những đàn voọc sinh sản và có các trạm kiểm lâm bảo vệ chúng.
- Yếu tố quan trọng bảo đảm sự thành công trong việc bảo tồn và phát triển quần thể voọc Cát Bà là gì, thưa Giám đốc ?
- Quan trọng nhất là người dân, vườn quốc gia Cát Bà, các câu lạc bộ bảo vệ rừng các xã, lực lượng kiểm lâm và dự án phối hợp chặt chẽ trong bảo vệ loài voọc với ý thức trách nhiệm và niềm tự hào về chúng. Voọc Cát Bà là loài linh trưởng quý hiếm, một trong 25 loài linh trưởng nguy cấp nhất của thế giới đang phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng rất cao. Việc thành lập và phát triển mạng lưới các CLB, Tổ Bảo vệ rừng, và người gác voọc, hỗ trợ kinh phí hoạt động cho họ, cũng là một biện pháp để giải quyết vấn đề này. Có thêm thu nhập, những người gác voọc từ bỏ việc săn bắn, bẫy động vật trong rừng quốc gia, trực tiếp bảo vệ, cung cấp thông tin về loài voọc. Họ là những tuyên truyền viên, cầu nối với người dân địa phương trong việc bảo vệ, bảo tồn loài voọc. Chúng ta nên nhớ rằng voọc là biểu tượng của Khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới quần đảo Cát Bà. Voọc không của riêng ai, chúng ở Cát Bà thì thuộc về Cát Bà, mọi người cần có trách nhiệm và ý thức bảo vệ chúng.
- Trân trọng cảm ơn, chúc Giám đốc thành công với công việc bảo tồn, phát triển loài voọc quý hiếm này và gắn bó lâu dài với Cát Bà!
Văn Lượng