Cô giáo 'nặng lòng' với trẻ tự kỷ

Âm thanh đầu tiên của em học sinh tự kỷ đã giúp cô Dung bén duyên với nghề giáo dục đặc biệt. (Ảnh trong bài: NVCC)
Âm thanh đầu tiên của em học sinh tự kỷ đã giúp cô Dung bén duyên với nghề giáo dục đặc biệt. (Ảnh trong bài: NVCC)
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Xuất thân là một cô giáo dạy văn, nhưng vì nhiều cơ duyên khác nhau, cô Lê Thị Thùy Dung đã trở thành một giáo viên dạy trẻ tự kỷ. Theo nghề hơn 10 năm đối với cô đó là cả một quá trình trao đi yêu thương, nhận lại yêu thương.

Vỡ òa từ tiếng nói đầu tiên của cậu bé tự kỷ

Cô Lê Thị Thùy Dung (sinh năm 1984, sống tại Hà Nội) đã có hơn mười năm gắn bó với công việc giáo dục trẻ tự kỷ. Cô chia sẻ, khi mới ra trường, cô là một giáo viên dạy Ngữ văn. Sau nhiều năm nỗ lực, cô trở thành giáo viên chính thức trong một trường cấp III ở Hà Nội. Công việc ổn định, cô được học sinh yêu mến, tôn trọng. Cô tâm sự: “Tôi cứ nghĩ cuộc sống của mình sẽ bình lặng trôi qua như vậy cho đến lúc về hưu”.

Trong thời gian nghỉ sinh con thứ hai, cô rất nhớ nghề, lại thêm việc có thời gian rảnh rỗi, nên được một người bạn mời về dạy kỹ năng sống ở một trung tâm tư nhân. Ban đầu, công việc của cô chỉ dạy bộ môn như giao tiếp, trò chuyện, thuyết trình cho các em học sinh. Một lần, lớp học của cô nhận em học sinh đã 6 tuổi, nhưng vẫn chưa có khả năng giao tiếp, tự phục vụ bản thân. Ban đầu, cô Dung rất ngạc nhiên, sau đó, tìm hiểu qua lời kể của phụ huynh và các giáo viên phụ trách khác, cô biết rằng em học sinh đó bị rối loạn phổ tự kỷ.

Bản năng của một người mẹ, một giáo viên khiến cô quyết tâm giúp đỡ em học sinh 6 tuổi rối loạn phổ tự kỷ ấy: “Quyết tâm là một chuyện, còn thực tế khi hỗ trợ các em học sinh tự kỷ đòi hỏi giáo viên phải thật kiên nhẫn, nỗ lực hết mình”. Ban đầu, em học sinh không chú ý đến cô, luôn lơ đễnh, mất tập trung. Cô Dung vừa phải làm quen với học sinh, vừa phải liên tục bổ sung kiến thức, học hỏi kinh nghiệm của những giáo viên ngành giáo dục đặc biệt.

Hơn một năm nỗ lực, có những lúc tưởng như hai cô trò phải bỏ cuộc. Cô Dung và em học sinh 6 tuổi dần trở nên gắn bó, thân thiết. Trước sự ngỡ ngàng của phụ huynh và các thầy, cô giáo khác, một ngày, em học sinh lần đầu nói được những âm thanh trọn vẹn, từ ngữ rành mạch, rõ ràng. Cô Dung chia sẻ: “Tôi đã có mười một năm đi dạy, đó là lần đầu tiên tôi thấy vui sướng như vậy. Tôi cảm thấy vui hơn cả khi nghe tin lớp mình 100% đỗ tốt nghiệp. Âm thanh ấy đối với tôi và gia đình của em là một điều kỳ diệu. Khi đó, tôi đã suýt bật khóc vì hạnh phúc”.

Cho đến một hành trình dài đồng hành cùng trẻ tự kỷ

Như một cơ duyên càng đi sâu vào ngành giáo dục trẻ tự kỷ, cô Dung càng yêu mến, mong muốn được cống hiến với nghề. Thời gian đầu, cô làm song song hai công việc vừa đi dạy trên trường, vừa tham gia hỗ trợ các trung tâm dạy trẻ đặc biệt. Thời gian này, cô được tiếp xúc với rất nhiều mảnh đời khác nhau. Cô Dung tâm sự: “Đó là những đứa trẻ bị “bỏ lại” phía sau, trước sự hoang mang của bố mẹ, bất lực của những giáo viên khác trong trường”.

Trẻ rối loạn phổ tự kỷ có thể hòa nhập xã hội, nếu như được can thiệp từ sớm.

Trẻ rối loạn phổ tự kỷ có thể hòa nhập xã hội, nếu như được can thiệp từ sớm.

Trong gần 10 năm theo nghề giáo dục trẻ đặc biệt, cô Dung tập trung vào mảng can thiệp sớm cho trẻ em bị rối loạn phát triển và chậm phát triển. Đối với cô, những em bị rối loạn phát triển là các ca khó nhất, vì như vậy có nghĩa là bố mẹ sẽ phải theo con suốt cả cuộc đời. Có những em dù đã bốn, năm tuổi những vẫn không thể nói, không thể nhận thức về cuộc sống như những em nhỏ khác. Phải mất từ một đến hai năm, với sự đồng hành của cả phụ huynh, gia đình mới có thể nói được.

Cô Dung nhớ nhất, cô từng tiếp nhận một em học sinh đã ngoài 20 tuổi, mới được gia đình đưa đến những trung tâm hỗ trợ trẻ đặc biệt: “Đó là một chàng trai cao hơn tôi cả cái đầu, nhưng vẫn chưa biết nói, chưa thể tự vệ sinh cá nhân. Trí tuệ của em chỉ như một đứa trẻ ba, bốn tuổi”.

Cô Dung cho biết, với các em bị rối loạn phổ tự kỷ và chậm phát triển, các con thường gặp khó khăn trong việc tiếp nhận, xử lý thông tin qua hệ thống các giác quan, nên không thể bắt chước, học hỏi như những đứa trẻ bình thường khác. Những em can thiệp muộn, thì khả năng hòa nhập vào đời sống, xã hội như một người bình thường sẽ thấp hơn. Giáo viên phải rất kiên nhẫn để dạy bảo, hướng dẫn các em.

Cô lấy ví dụ như em học sinh ngoài 20 tuổi, ban đầu thường mất tập trung, không muốn nghe cô nói. Thậm chí, các em còn gào thét nếu bản thân cảm thấy khó chịu. Cô nói: “Đó là điều không thể tránh khỏi”. Cô chia sẻ, có những lúc các em mất khống chế bản thân và vô tình làm tổn thương giáo viên. Cô nhớ nhất, một lần đang dạy em học sinh 20 tuổi học, em bị đau đầu dữ dội do ảnh hưởng của căn bệnh rối loạn phổ tự kỷ. Cô phải đưa bàn tay của mình cho em cắn, nước mắt hai cô trò cứ rơi xuống vì thương nhau: “Kết thúc buổi học, bàn tay tôi là dấu răng và vết xước”.

Sau một thời gian dài làm song song hai công việc trên trường và trung tâm giáo dục trẻ đặc biệt. Đến năm 2020, khi các con đã lớn, điều kiện kinh tế gia đình ổn định hơn, cô Dung xin nghỉ việc trên trường để dành toàn thời gian cho công việc giáo dục trẻ rối loạn phổ tự kỷ của mình. Hiện tại, cô mở một trung tâm nhỏ hỗ trợ các em tại Hà Nội.

Đừng bao giờ từ bỏ hy vọng vào trẻ tự kỷ

Cô Dung tâm sự, mỗi em học sinh đều là một thiên tài, có khả năng riêng biệt, không ai hoàn hảo hay khiếm khuyết hoàn toàn. Đối với những trẻ tự kỷ, các em có thể hòa nhập vào cuộc sống, học tập được như bao đứa trẻ bình thường khác, miễn là cha mẹ đủ kiên nhẫn, yêu thương và đừng bao giờ từ bỏ hy vọng vào những đứa con “đặc biệt” của mình.

Cô nhớ về các em học sinh của mình. Mỗi em đều có những ưu điểm như “cậu bé” ngoài hai mươi tuổi vẫn chưa biết nói là một học sinh ngoan ngoãn, lễ phép. Em học sinh 6 tuổi là một đứa trẻ giàu tình yêu thương. Cô Dung chia sẻ, ngay tại trung tâm của cô cũng có những em “cựu học sinh” đã đỗ vào các trường cao đẳng, đại học, trở thành giáo viên và quay lại trợ giảng hỗ trợ cho trung tâm của cô.

Cô cho biết, có những học sinh tự kỷ rất thông minh, các em có tài năng ở nhiều lĩnh vực khác nhau như toán học, âm nhạc, mỹ thuật, kỹ thuật,... Cô Dung kể về một trường hợp ở trung tâm của mình: “Như em Bảo Minh, nhờ có sự đồng hành từ bố mẹ, thầy cô, hiện tại, em đã có khả năng giao tiếp như những người bình thường đến khoảng 70%. Bản thân em phát hiện ra năng khiếu về âm nhạc của mình và hiện tại đang học song song một trường bình thường và Học viện Âm nhạc”.

Giáo dục trẻ tự kỷ là một hành trình nỗ lực của cả giáo viên, phụ huynh và chính các em học sinh.

Giáo dục trẻ tự kỷ là một hành trình nỗ lực của cả giáo viên, phụ huynh và chính các em học sinh.

Cô cho biết, thực tế các em cũng khao khát được giống như những người bình thường: “Khi nhìn các em bất lực, đau đớn, mệt mỏi đập đầu vào tường, tự cào cấu làm đau cơ thể mình. Tôi thật sự rất thương các em”. Việc đồng hành cùng một học sinh bình thường cần sự nỗ lực, kiên trì của bố mẹ, các thầy, cô giáo, thì đối với những em học sinh rối loạn phổ tự kỷ khó khăn tăng lên gấp ba, gấp bốn. Mỗi lần được phụ huynh tin tưởng gửi gắm con cái, câu hỏi cô nhận nhiều nhất là: “Khi nào các con biết nói? Khi nào các con sẽ tự phục vụ được các nhu cầu cá nhân của bản thân”. Cô cho biết, sớm hay muộn tùy vào tình trạng rối loạn phổ tự kỷ, rối loạn phát triển, cùng khả năng của chính các em.

Cô Dung tâm sự, từng tuần học, cô sẽ có những chủ đề riêng để hướng dẫn các em. Mỗi chủ đề phải được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần: “Lấy ví dụ, tôi dạy chủ đề về rau củ, như rau muống, tôi sẽ cho các em sờ, nhìn thấy rau. Sau đó nhắc lại nhiều lần cho các em, mười lần, hai mươi lần, thậm chí đến năm mươi lần”. Trong các buổi học sau đó, cô tiếp tục có những liên hệ gợi nhớ, giúp các em có được những “mường tượng mơ hồ” về rau muống.

Cô thường khuyến khích phụ huynh ở nhà cũng nói chuyện nhiều với các em. Để học sinh làm quen với âm thanh. Ngoài ra, thường đưa các em ra ngoài để tiếp xúc với cuộc sống xã hội đời thường, liên hệ với những thứ đã dạy ở trường và bố mẹ hướng dẫn tại nhà: “Bố mẹ có thể đưa con đi siêu thị, giúp các em nhận biết về các loại rau củ, hàng hóa. Đồng thời dạy các em hiểu rằng muốn lấy một món đồ phải trả giá bằng một vật khác (ở đây là tiền)”.

Cô cho biết, cha mẹ nên quan tâm, săn sóc để ý trẻ từ khi mới lọt lòng. Biểu hiện việc chậm nói, không linh hoạt,... cần phải được đưa đến phòng khám kiểm tra định kỳ. Giai đoạn để can thiệp sớm cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ là khoảng từ 18 - 36 tháng tuổi, càng sớm khả năng hòa nhập xã hội sau này của các em sẽ càng tốt.

Đọc thêm

Điều chỉnh “xét tuyển đại học sớm” để bảo đảm công bằng cho tất cả các thí sinh

Việc quy định chỉ tiêu xét tuyển sớm và quy định điểm chuẩn trúng tuyển cần bảo đảm được sự công bằng giữa các thí sinh trong các đợt xét tuyển. (Ảnh minh họa: Ngọc Hương)

(PLVN) - Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) Hoàng Minh Sơn cho biết, việc có quy định chặt chẽ hơn nếu sử dụng học bạ để xét tuyển thì cần có kết quả học tập của cả năm lớp 12 cũng là hướng tới bảo đảm công bằng cho các thí sinh (TS) ứng tuyển. Nếu chỉ xét đến 5 học kỳ ở cấp THPT mà bỏ qua học kỳ II của lớp 12 sẽ khiến cho nhiều em chủ quan và không tập trung học tốt đều các môn.

Góp ý cho Kỳ tuyển sinh Đại học, cao đẳng năm 2025: Nên loại bỏ các phương thức tuyển sinh không bảo đảm chất lượng đầu vào

Tuyển sinh năm 2025 có nhiều thay đổi theo CTGDPT 2018. (Ảnh minh họa: PV)
(PLVN) - Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng (ĐH, CĐ) Việt Nam vừa có kiến nghị gửi Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) về giải pháp bảo đảm tính đồng bộ giữa nội dung Chương trình giáo dục phổ thông 2018 (CTGDPT 2018), việc triển khai thực hiện chương trình, tổ chức thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh ĐH từ năm 2025.

Nâng cao hiểu biết pháp luật trong học sinh, sinh viên

Việc một bộ phận học sinh, sinh viên thiếu hiểu biết về pháp luật là một thực trạng đáng báo động. (Ảnh: BD)
(PLVN) - Thời đại công nghệ phát triển, giới trẻ có cơ hội tiếp cận nhiều thông tin nhưng cũng đối mặt với những hệ lụy, nhất là khi không được trang bị nền tảng kiến thức pháp luật. Một số bạn trẻ hiện nay “vô tư” thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật gây ra hậu quả nghiêm trọng chỉ vì thiếu hiểu biết pháp luật.

Ngăn ngừa thuốc lá mới xâm nhập học đường

Ảnh minh họa: Sở GD&ĐT Hà Nội
(PLVN) - Trước tình trạng thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng diễn biến phức tạp, gia tăng nhanh ở giới trẻ, nhiều trường học tại các tỉnh/thành đã tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao ý thức cho học sinh về tác hại của thuốc lá mới, góp phần đẩy lùi mối lo này ra khỏi trường học.

20 năm kiến tạo tri thức của Trường Đại học Thành Đô

20 năm kiến tạo tri thức của Trường Đại học Thành Đô
(PLVN) -  Ngày 30/11/2024 đánh dấu cột mốc vàng son trong lịch sử của Trường Đại học Thành Đô – hai thập kỷ nỗ lực không ngừng để kiến tạo một môi trường giáo dục chuẩn mực, kiên định với sứ mệnh kiến tạo không gian tích hợp WILL, gắn kết hài hòa giữa học tập, nghiên cứu, giảng dạy, thực hành, hướng nghiệp và trải nghiệm cuộc sống. Lễ kỷ niệm có sự tham dự của đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trung tâm và cơ sở giáo dục, các doanh nghiệp đối tác, bệnh viện, nhà trường, báo chí…

Thúc đẩy thực hành kinh doanh có trách nhiệm tại Việt Nam

PGS.TS. Trần Việt Dũng – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Luật TP.HCM phát biểu tại Hội thảo.
(PLVN) - Sáng ngày 30/11/2024, tại Trường Đại học Luật TP.HCM đã diễn ra hội thảo khoa học với chủ đề “Chính sách pháp luật thúc đẩy thực hành kinh doanh có trách nhiệm tại Việt Nam – Kinh nghiệm và thực tiễn”. Đây là sự kiện do Nhóm đề tài cấp Bộ tổ chức, thu hút sự tham gia của đông đảo chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý và đại diện doanh nghiệp trong lĩnh vực pháp luật, lao động và môi trường.

Dự thảo Quy chế tuyển sinh đại học 2025: Tăng trách nhiệm của các cơ sở đào tạo trong công tác tuyển sinh

Thay đổi dự thảo quy chế tuyển sinh đại học 2025, bảo đảm công bằng cho thí sinh. (Ảnh minh họa: ĐHQGHN)
(PLVN) - Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) vừa công bố dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tuyển sinh đại học 2025. Theo đó, Bộ GD&ĐT đề xuất, các điểm xét, điểm trúng tuyển của các phương thức, tổ hợp môn sử dụng để xét tuyển phải được quy đổi tương đương về một thang điểm chung, thống nhất.

Bộ Công an thông tin về đề thi đánh giá năm 2025

Ảnh minh họa
(PLVN) - Bộ Công an cho biết, trong năm 2025, đơn vị sẽ hướng dẫn các cơ sở đào tạo trong ngành bám sát chương trình giáo dục phổ thông và thực hiện theo đúng các quy định trong tuyển sinh đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo.