Xóm Tứ Thời mấy chục nóc nhà bám đất mà sống. Phần đất bồi theo năm theo tháng của phù sa tôn tạo. Lạ kỳ là dù ít ỏi và heo hút khuất biệt trong đồng sâu nhưng chỉ cần hỏi cái xóm Tứ Thời là thiên hạ Cố Giang rành rọt. Họ có thể nói vanh vách từ một cái tên. Thậm chí có những thứ người ta nói chừng hỏi lại dân Tứ Thời, nhân vật trong câu chuyện còn chưng hửng. Có chạy về xóm hỏi mấy ông bà già xưa lắc lơ ở cái xóm này cũng chẳng thể tường minh. Lớp lớp thời gian theo sóng nước chảy tràn câu chuyện như Cố Giang chảy tràn qua châu thổ. Đôi lúc người ở xa cho ghe về Từ Cô, ghé bến uống ly cà phê hỏi đường đi Tứ Thời, bà bán cà phê trên bến tay pha miệng kể. Chú em tìm đúng nơi rồi. Để tui kể chú nghe. Mới đây nè…
Lời đồn lời thổi, tiếng được tiếng mất, thành thử ra mọi câu chuyện về cái xóm heo hút luôn khiến thập phương thương hồ khách vãng lai gật gù hao háo ngồi nghe. Chuyện mới hay không thì không biết. Nhưng cái chuyện làm mười bỏ một thì dân miệt chín nhánh sông tin sái cổ. Tin như thể chỉ cần đến đầu xóm Tứ Thời, thấy cọng cờ trổ đỏ thì thẳng ghe mà hỏi, nhưng nếu thấy cọng cờ queo quắt nâu bầm thì quay ghe về. Tin chứ, bởi đó là chuyện đời người chỉ một. Đâu ai dám liều. Trước nay trăm năm như vậy. Chưa một ai dám trái lời thiên ý.
Đôi lần Linh hỏi ngoại có thiệt vậy không? Có thiệt là mình làm mười bỏ một? Có thiệt là cọng cờ trổ đỏ thì mới nhận dựng cổng? Có thiệt là trên đời này có thiên ý? Ngàn cái cổng dựng lên nhưng chưa bao giờ má bước qua cái cổng dựng cho đời mình. Nghề này nó nghiệt thí mồ. Ở Tứ Thời, đứa nhỏ lớn lên chưa kịp biết con chữ đã phải học xếp lá. Người lớn chưa kịp cúi đầu trước bàn gia tiên đã phải dập mình khấn tổ. Tổ độ thì đâu có linh đinh với nghề, đâu có thắt thẻo với đời.
Bận đó Linh say rượu gạo. Ngồi mé sàn lãng ngó trăng chếch bóng soi xuống dòng nước lênh loáng. Trăng cũng dập dềnh theo từng gợn sóng. Linh ngó trăng. Trăng ngó Linh. Như đêm vẫn ngó lên đời người Tứ Thời.
***
Má theo cậu sang tận Ngã Năm dựng cổng. Bữa cơm chiều ngoại biểu phải cho thêm ghe bồi lá bắp, chọn loại lá già, nay đến kỳ làm Nguyệt Ảnh. Linh hai mươi. Da vàng phù sa. Tóc cháy nắng đồng. Thân cao thước tám. Tay u thịt bắp. Gót nứt đóng bùn. Ngoại nói cái thứ khùng khùng như Linh thì có đứa nào mụ bà che mắt mới ưng Linh. Học chưa hết lớp chín, Linh bỏ trường ngoài thị trấn, lội bộ về bến Từ Cô, hơn ba tiếng trời đi bộ chớ ít gì. Quá giang chiếc ghe bẹo mỗi tuần hay ghé xóm đổ hàng mà về. Dứt khoát phải về. Chứ mắc gì ở trên đó cho cả đám dí đánh mình con. Mách ông thầy ổng nói giỡn mà. Giỡn gì ngày nào cũng đánh bầm tím. Mà mỗi lần đánh lại thì ổng bắt đứng nắng. Trời chang chang đứng như ai hành. Không có ai hành, tại cái nghèo, cái nghiệp nó hành hạ. Cha thầy nói chả trúng. Cái cổng làm ổng nhà tan cửa nát, vợ đi theo người khác. Cái cổng làm ổng không có con. Chả nói Tứ Thời đúng là đám ác nhân. Thù hằn dữ dằn vậy ở lại học làm chi? Học được gì?
Câu hỏi trống không bay bềnh bồng như mây. Mây cứ miên mải qua mấy cây bắp, qua mấy tàu lá dừa, qua mấy cái cổng cưới, qua luôn đời người Tứ Thời. Mây nó còn không muốn ở Tứ Thời nữa kìa. Linh nói vậy, nhất quyết nghỉ học. Má bắt nằm sấp xuống cái đi văng rồi cầm roi tre đánh. Má đánh chục cây mà Linh không giọt nước mắt. Nó cắn răng khi vết đau tươm máu. Má bỏ cây roi rồi đi ra mé sàn lãng. Linh lụm cây roi lên rồi cắp nách ngồi sát má nó, thất học đâu có gì đâu má, chừng nữa cùng lắm con đi bắt ốc hái rau cho má. Mưa quất những ngọn đau vào lòng chiều. Hoàng hôn bầm tím nền trời. Má khóc. Má ôm Linh. Vòng tay má không ôm trọn đứa con đã bắt đầu nhổ giò, thân ảnh bắt đầu vạm vỡ. Đầu má tựa lên vai Linh. Má hỏi Linh đau không? Không đau. Không có ai đau hết trơn. Mỗi ông trời đau. Nên ông khóc. Chiều Tứ Thời mù mưa.
***
Linh bắt đầu theo cái nghề làm cổng cưới trứ danh khắp đồng bưng châu thổ này của xóm Tứ Thời. Nhưng, đất thành khu công nghiệp, mấy tòa siêu thị bắt đầu thay dần chợ quê, ti vi siêu phẳng len vào từng nhà, dân chín nhánh sông như lên đồng theo sự hiện đại hóa. Má về mé sàn lãng khi thị trấn mọc lên cái tiệm cho thuê đồ cưới. Má thở dài thườn thượt, hèn gì người ta ít kêu dựng cổng cưới bằng mấy thứ cây lá bông hoa quê kiểng này nữa. Cổng cưới mới làm bằng khung chắc chắn, bông hoa xanh đỏ tím vàng bắt mắt. Mấy tấm vải voan hiện đại chụp hình lấp lánh. Thiên hạ sính đồ đẹp lạ du nhập từ thị thành về. Hễ thứ gì gắn mác Sài Gòn thì cũng là đồ ngon. Châu thổ chục cái đám cưới là chục cái cổng vải hoa có liền, tiện lợi, cũng rẻ tiền. Sáng dựng chiều dỡ ra, chở đem về cái ót. Không tốn công, đỡ tốn tiền. Má ngoái đầu nhìn con nước lững lờ mấy chùm bông nhỏ xíu trôi líu ríu theo chiều dập dềnh ánh buồn rười rượi. Tứ Thời bây giờ chắc là hết thời rồi hen.
Linh nổ máy chiếc ghe ra giữa vàm nằm gác chân chữ ngũ ngó thao láo về ruộng bắp. Bận đó, ruộng bắp của Tứ Thời vẫn xanh lá già, nhưng chẳng có cái đám cưới nào dựng bằng cổng lá. Người Tứ Thời vẫn trồng bắp. Trái để ăn. Lá thả sông. Sông trôi qua bao khúc nhôi. Lá cứ thế mà mục rữa lắng thành phù sa nuôi châu thổ. Thời gian dày thêm những vết chim di trên đôi mắt dân Tứ Thời.
***
Nhưng, dạo gần đây, Tứ Thời bỗng rần rần người tìm đến. Ông đại gia nào đó làm cái kỷ niệm đám cưới kim cương tận Sài Gòn, ổng muốn tìm lại cái thời xưa xa cũ càng, muốn dựng cái cổng cưới bằng lá, kết hoa, treo đèn lồng như hồi ổng còn là dân miệt thứ. Dân Tứ Thời lên Sài Gòn dựng cái cổng cưới bằng lá trong cái biệt thự sân vườn xanh um. Người thị thành ngẩn ngơ hồn mình. Thiên hạ quay phim chụp hình ì đùng. Mạng xã hội tung hê như người ta tìm về được cội nguồn. Cái xưa cũ đang ủ rũ lại bỗng dưng thành thú chơi cho người giàu sang thể hiện. Ngoại nói chắc họ cũng không biết thế nào Nguyệt Ảnh, cũng chẳng hiểu được vì sao ông bà mình ngày xưa chỉ toàn lấy lá làm cổng cưới. Nhưng kệ đi, trăm con sông đổ ra biển rồi ngàn sóng nước cũng theo một lạch luồng nào đó mà quay về lại đồng. Cổng cưới đi từ lá lên vải rồi dát vàng lấp lánh cỡ nào thì cũng đâu qua được cái thứ quê kiểng nhưng đậm đà tình nghĩa xứ sở. Tứ Thời được thời, dập dìu xuồng ghe đi dựng cổng cưới quê kiểng. Càng quê kiểng là càng giá cao.
Sớm mùa nước nổi, ghe bồi lá bắp xuôi về Ngã Năm để kịp cho má với cậu dựng cổng Cố Giang Nguyệt Ảnh. Cái cổng cưới thiên hạ hay hiểu lầm thành cổng bỏ. Cố Giang Nguyệt Ảnh dựng theo thước lỗ ban vào khung Vượng. Thế nhưng, một năm nào đó, ông bán vàng nức tiếng miệt Ngã Năm dựng cổng cưới đặc biệt này lại vớ ngay bà vợ ngoại tình. Bà vợ bỏ đi, cuỗm theo một số vàng lớn. Tiệm vàng sập. Ông bán vàng xuôi ghe khắp bến Từ Cô rêu rao. Cổng cưới xếp lá hình đôi tình nhân lồng vào ánh trăng tròn trứ danh bỗng thành nỗi ám ảnh.
Linh đang hì hục chất lá lên giàn thì thấp thoáng bóng má với ai đó dùng dằng ngoài mé sông. Linh chạy tới chỉ loáng thoáng nghe má nói nhẹ tênh. Làm gì có chuyện làm mười cái cổng vào khung Vượng thì phải bỏ một cái cổng vào khung Khổ. Trăm ngàn cái cổng cưới đo từ đất lên đỉnh đều là khung Vượng. Người ta thương nhau rồi ăn đời ở kiếp chứ cái cổng cưới nó nhiệm mầu quyền phép gì đâu. Cổng cưới chỉ như một thứ để khiến người ta đi qua và dừng lại mãi mãi sau cái cổng đó. Nhắc nhớ người ta biết chung thủy là chuyện một đời. Một đời cũng chỉ một lần cưới.
Cố Giang Nguyệt Ảnh chỉ là cái cổng đặc biệt bởi nó đúng mùa trăng tròn con nước đồng gọi bắp trổ cờ. Coi như một điềm hỷ sự dân Cố Giang dành cho cặp đôi nào đó cưới ngay dịp may mắn này. Nhưng lời đồn thì luôn nhanh hơn gió. Giản đơn như chỉ cần một lời đồn của ông bán vàng mà mối tình của thằng con trai bà tạp hóa lớn nhất xứ này đành lỡ làng với con nhỏ Tứ Thời ngày cũ. Lời đồn không phải dao sắc mà bén ngọt cứa đứt một chuyện tình. Dẫu cái chuyện tình đó ngày ấy nảy mầm một hoài thai trong mùa nổi cá linh non nhảy đồng đầy dớn. Thằng con bà tạp hóa không biết. Mãi không biết cho đến tận hôm nay, khi gặp lại người xưa với nghề cũ.
Linh chạy tới, lôi tay má đi. Mình đi làm cổng cưới, má chạy ra đây làm gì. Cố Giang Nguyệt Ảnh làm mất cả hai ba ngày mới xong. Làm nhanh rồi về. Mình dân Tứ Thời quê kiểng làm gì hợp với dân buôn bán thương hồ Ngã Năm này. Về đi má, về con bắt ốc hái rau cho má.
Người đàn ông đuổi theo. Chưa qua kịp cái cổng Cố Giang Nguyệt Ảnh đã thấy vợ con ra trầm trồ cái cổng hoa cưới. Bà chủ nhà hỏi ông chồng cổng hoa này đẹp quá chừng, sao biết mà đặt. Ông chồng lóng ngóng. Bà chủ nhà buông tiếng cười hớn hở. Đời con người ta một lần qua cổng cưới. Còn bà chị làm cổng cưới thì chắc đi qua trăm lần hen. Câu hỏi rót vào thinh không đầy gió. Gió lay cái cổng cưới phất phơ lá. Lá bện tròn thành cung trăng. Lá tạo thành đôi hình cô dâu chú rể. Nhưng lá không che nổi đôi mắt ướt nước của má. Lá cũng không giấu được nỗi thẫn thờ của Linh khi bất giác nhìn thằng chú rể ngày mai, sao hao hao giống mình vậy?