Chuyện tình người lính và cô gái mang tên hai mùa

Trở về sau chuyến đi dài ngày luồn rừng tìm đồng đội, trong căn nhà nhỏ ở tổ dân phố số 10, phường Quang Trung (Hà Đông, Hà Nội), ông Lê Quang Luận lần giở kí ức, kể lại câu chuyện tình lãng mạn và đượm buồn trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt.

Trở về sau chuyến đi dài ngày luồn rừng tìm đồng đội, trong căn nhà nhỏ ở tổ dân phố số 10, phường Quang Trung (Hà Đông, Hà Nội), ông Lê Quang Luận lần giở kí ức, kể lại câu chuyện tình lãng mạn và đượm buồn trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt.
 
Mùa hè năm 1967, rời làng Đơ nhỏ bé thân yêu, chàng trai Lê Quang Luận cùng 5 thanh niên xã Hà Cầu viết đơn tình nguyện vào chiến trường.

Ông Lê Quang Luận.

Vào quân ngũ, ông Luận được biên chế về đơn vị thông tin, học lớp báo vụ rồi làm Đài trưởng 15W (Tiểu đoàn 17, Sư đoàn 2, Quân khu 5), tham gia chiến đấu ở chiến trường Quảng Nam, Quảng Ngãi, Tây Nguyên...

Ông được tham gia trận đánh đầu tiên vào khu căn cứ Khâm Đức (Quảng Nam) trong chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968. Bước chân theo cuộc trường chinh, ông ôm máy điện đài hành quân qua khắp các chiến trường...

Một buổi chiều mùa mưa năm 1972, bầu trời phủ lớp mây đen xám xịt. Tổ đài 15W do Luận phụ trách được lệnh vượt sông Pô Cô phối thuộc chiến đấu cùng trung đoàn Ba Gia. Con thuyền độc mộc lách mình chồm lên làn sóng dữ sang đón đoàn vượt sông. Cùng vượt sông chiều hôm ấy có cả đoàn văn công mới bổ sung từ Bắc vào biểu diễn phục vụ bộ đội. Mọi người đang hối hả lên thuyền. Bỗng một ánh mắt e lệ ngước nhìn làm chao đảo trái tim chàng lính trẻ.

"Cô ấy là Việt kiều ở Noong Khai, Thái Lan hồi hương đấy", anh Phúc, một đồng hương Hà Tây giới thiệu.

Quê ở Hà Tây nhưng từ nhỏ Luận theo gia đình sang Thái Lan sinh sống, sau đấy trở về quê hương tham gia chiến đấu. Bất ngờ gặp người cũng là Việt kiều Thái Lan giữa chiến trường. "Em tên gì? Về Việt Nam chuyến nào? Nay gia đình ở đâu?", Luận hỏi dồn dập như sợ thời gian vuột mất. "Em tên Thu Hạ, về chuyến tàu 44, được Bác Tôn ra đón, hiện giờ gia đình em ở nơi có mộ Tổ Hùng Vương".

Hạ còn rất trẻ, nước da trắng ngần, xinh xắn. Cô như yêu kiều, duyên dáng hơn trong bộ bà ba màu tím Huế. Chiếc mũ tai mèo tô thêm nụ cười e ấp làm duyên trên gương mặt trái xoan.

Vượt sông, vừa vào đến rừng trời bắt đầu mưa. Mưa ào ào. Mưa xối xả. Nhưng câu chuyện như cuốn hút hai người làm quên đi cái đói, vất vả chặng đường dài, quên cả cơn mưa rừng đang dội trên những tán cây.

Chia tay Hạ, Luận vác điện đài hòa cùng đoàn quân tham gia chiến dịch Đắc Tô - Tân Cảnh. Hình ảnh người con gái mảnh mai, vai khoác ba lô, giọng cười nhẹ như gió thổi đã choán ngập tâm hồn anh.

Hiệp định Pa-ri được ký kết. Trong hội nghị biểu dương khen thưởng chiến sĩ thi đua của quân khu, Luận bất ngờ gặp Hạ. Cô gầy, đôi mắt không còn đen láy nữa, sốt rét rừng, đói cơm, củ sắn cầm hơi... đã nhuộm đôi mắt Hạ thành màu nâu đục, môi khô thâm, tóc rụng lưa thưa... Hạ sụt sùi khóc, không nói nửa lời, lặng lẽ dúi vào tay Luận tấm ảnh cô chụp hồi còn học ở trường nghệ thuật.

Chiến tranh kết thúc, Luận về tiếp quản Đà Nẵng, chốt giữ trận địa pháo 175 mm trên núi Ngũ Hành Sơn. Một buổi chiều nhạt nắng, Hạ xuất hiện ngỡ ngàng. Hai người dạo trên bờ cát trắng... Luận định mở lời nhưng Hạ ngăn lại: "Em đoán biết anh định nói gì rồi, nhưng anh đừng nói gì hết, chiến tranh mà... có điều anh chưa biết về em...".

Hòa bình, Luận mang ba lô trở về quê. Bao năm anh vất vả ngược xuôi đi tìm Hạ nhưng vẫn bặt vô âm tín. Một lần tình cờ xem chương trình “Trang thơ” trên ti vi, anh như reo lên khi bắt gặp Hạ xuất hiện trên chiếc xe lăn, ngâm bài thơ “Núi Đôi” của Vũ Cao.

Lần theo địa chỉ, Luận tìm đến được nhà Hạ. Luận hồi hộp bước vào. Nhưng anh sững người khi trên bàn thờ, tấm ảnh Hạ choàng chiếc khăn voan, nụ cười tươi rói. Em gái Hạ òa khóc nức nở, khấn chị rồi lấy từ sau tấm ảnh ra một lá thư đưa cho anh. Thư viết:

“Anh Luận yêu quý của em!
Lẽ ra em đã nói với anh khi anh cầu hôn em ở bãi biển Non Nước. Biển hôm ấy đẹp quá phải không anh? Nhưng lòng em thì buồn, buồn vì tình yêu không được trọn vẹn. Em đã không đủ can đảm nói với anh. Em không muốn vì em mà làm anh buồn những ngày gần em. Cảm ơn tình yêu của em. Cảm ơn anh đã mang lại ngọt ngào hương vị đầu đời. Giờ nếu được nói em sẽ nói rằng: Em rất yêu anh. Song em không muốn anh phải khổ. Em đã giấu anh, em bị nhiễm chất độc Đi-ô-xin rất nặng, chất độc đang giết mòn em từng ngày. Ôi! Chiến tranh tàn khốc, đã cướp đi hạnh phúc bình dị của bao người. Một ngày không xa em phải rời xa mọi người thân và cả anh nữa. Được yêu anh là em hạnh phúc mãn nguyện lắm rồi. Thương và yêu anh nhiều. Hôn anh nghìn lần. Vĩnh biệt anh!”.

Luận chết lặng người, nỗi mất mát quá lớn so với sự kỳ vọng về tình yêu của người lính vừa đi ra khỏi cuộc chiến tranh.

Chiến tranh tàn khốc và thời gian cùng qui luật bào mòn, đào thải nghiệt ngã có sức công phá to lớn với con người và cuộc đời... Bụi thời gian đã phủ trắng mái đầu, nhưng trong trái tim người lính già, tình yêu ban đầu vẫn rất đẹp.

Thu Hồng