Kiêng xuất hành ngày mùng một Tết
Nhà buôn tên là Samuen Baron trong cuốn sách “Mô tả Vương quốc Đàng Ngoài” của mình viết năm 1685 (thời nhà Hậu Lê) đã mô tả những nét cơ bản của phong tục Tết mà ông thấy tại Kẻ Chợ (Thăng Long) lúc bấy giờ, trong đó có nhắc tới chuyện các quan đi chúc Tết nhà vua.
Theo tác giả mô tả, dân gian có tục kiêng xuất hành ngày mồng một, trừ các đại thần vào triều chúc Tết vua: “Mồng một Tết, nói chung không có ai ra khỏi nhà. Người ta kiêng xuất hành, sợ gặp vía dữ, trừ các quan liêu, phải bắt buộc đến lạy mừng Tết ở cung vua, phủ chúa”.
Sử liệu triều nhà Lê ghi chép lại, sáng mồng một Tết, “Tiết chế phủ vâng lệnh chỉ của chúa đưa các vị đại thần hàng công, hầu, bá và bách quan văn võ, đầy đủ phẩm phục vào triều chúc mừng”. Lễ này được tổ chức tại điện Kính Thiên với những nghi thức long trọng, hoàng đế được rước ngự trên ngai vàng, các quan chia làm hai ban đứng hầu bên sân rồng.
Quan tiêu biểu dâng biểu của chúa, của quan lại trong triều và quan chức các xứ, các đạo trong cả nước chúc như sau: “Nay gặp tiết chính Nguyên đán, chúng thần kính nghĩ rằng hoàng đế bệ hạ vâng chịu mệnh trời , sáng cầm nghiệp lớn, gặp ngày chính đán, thêm hưởng phúc lành, chúng thần khôn xiết hân hoan kính chúc hoàng thượng sống lâu muôn năm”.
Xong đến lượt quan truyền chế đọc chế mừng của vua dành cho các quan lại, thần liêu. Các quan dưới sân nghe xong cảm ơn, lạy tạ 4 lần tung hô “vạn tuế”.
Sau lễ nhận những lời chúc Tết của bề tôi, trong dịp Tết, nhà vua sẽ ban phát ân huệ cho quần thần tùy theo thứ bậc khác nhau, có thể là trang phục, vải vóc nhưng chủ yếu là ban tiền. Thời Lê Trung Hưng, tại vương phủ, chúa cũng có lệ ban tiền thưởng Tết cho các quan.
Cùng với việc thưởng tiền là lễ đãi yến, không có quy định tổ chức ngày bao nhiêu mà tùy từng năm. Như năm Ất Mão (1435), Vua Lê Thái Tông “ban yến trong năm ngày cho các quan văn võ trong ngoài, phát tiền cho các quan làm việc ở ngoài theo thứ bậc”.
Hay như Vua Lê Nhân Tông vào năm Bính Tý (1456), mùa xuân tháng Giêng, ngày mùng ba ban đại yến cho các quan. Những điều này được sách Đại việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi lại.
Sau này vào thời Vua Lê Trung Hưng, những lệ này được quy định rõ ràng. Trong sách “Lê triều hội điển” cho biết ngày đầu tiên của năm mới, tức mồng một Tết, có lệ vua ban tiền thưởng và tổ chức yến tiệc thiết đãi quần thần, việc lo cỗ yến này do một cơ quan thuộc bộ Lại là Lại Phiên thực hiện việc xuất tiền để bên Lễ Phiên (bộ Lễ) thi hành.
Theo quy định, các quan ở Lại Phiên “vâng lĩnh 500 quan tiền ban cho các quan văn võ và chuyển đến Lễ Phiên để làm cỗ yến”. Về việc ban tiền, tùy chức trách, thứ bậc mà tiền thưởng khác nhau. Ví dụ như quan nhất phẩm được 5 quan tiền quý, nhị phẩm được 4, tam phẩm được 3, tứ phẩm được 2 quan.
Người chưa có chức phẩm nhưng được giữ chức quản binh và các thành phần khác như đội trưởng, chánh đội, vệ sĩ trở xuống được từ 6 mạch tiền quý đến 1 mạch tiền quý, theo Lê triều hội điển.
Những nghi lễ dịp Tết thời nhà Nguyễn
Dịp Tết, trong cung đình có những đặc trưng riêng do các lễ chính được quy định chặt chẽ, được xem là luật lệ. Vì vậy, phần lễ là chính, phần hội đôi khi mờ nhạt. Vào thời Nguyễn, các hoạt động lễ trước và sau Tết Nguyên đán được tổ chức rất trang trọng và chu đáo”.
Đầu tiên là Lễ Ban sóc (lễ ban lịch năm mới) vào ngày 1/12 âm lịch tại điện Thái Hòa (từ năm 1840 thì tổ chức tại Ngọ Môn). Cơ quan Khâm Thiên Giám đặt triều nghi và dâng lịch năm mới. Sau đó, vua ban lịch cho các quan, các quan làm lễ tạ ơn rồi tổ chức các quan huyện lĩnh lịch để phát cho thần dân.
Tiếp đến là Lễ Tiến xuân - Nghênh xuân. Đây là một trong những nghi lễ quan trọng trong dịp Tết ở cung đình, tổ chức vào tiết lập xuân (đầu tháng 2 dương lịch) tại điện Cần Chánh đến quảng trường Ngọ Môn. Khoảng ngày 21, 22/12 âm lịch, Khâm Thiên giám và Võ khố lấy nước và đất ở phường Tuế Đức, dùng gỗ làm cốt làm ra 3 con trâu đất và 3 vị mang thần (thần chăn trâu với hình tượng là đứa bé đứng cạnh con trâu).
Tranh vẽ đại lễ ngày mùng một Tết ở Thế Miếu – Đại nội Huế năm 1923 |
Thân trâu cao 4 thước (thước phong thủy tính mỗi thước 28 cm) tượng trưng 4 mùa; dài 8 thước tượng trưng 8 tiết, đuôi dài 1 thước 2 tấc tượng trưng 12 tháng. Mang thần cao 3 thước, 6 tấc, 5 phân tượng trưng 365 ngày...
Phủ Thừa Thiên cho đặt đàn tế, các quan binh rước trâu đất và mang thần đến đàn tế làm lễ Nghênh xuân. Sớm ngày lập xuân, các đại thần mặc triều phục rước trâu đất và mang thần đi qua các cửa chính và Nội giám tiếp nhận tiến vua, sau đó quan phủ Thừa Thiên đánh trâu đất 3 roi tỏ ý khuyên việc cày cấy, khuyến khích nông nghiệp. Từ đó về sau, hàng năm làm lễ Tiến xuân xong, cứ bưng trâu đất và mang thần lần trước ra giao Võ khố nhận lưu trữ.
Một nghi lễ nữa là lễ Phất thức (lễ quét dọn) vào ngày 20 tháng Chạp. Triều đình cho chuẩn bị 6 tủ gỗ chứa các ấn vàng, ấn ngọc. Khi vua ra ngự giá, các cửa tủ đều mở, dùng khăn thấm nước lấy từ sông Hương lau các ấn rồi cho vào tủ khóa lại, niêm 2 chữ “Hoàng phòng”.
Sau lễ này, vua và các quan nghỉ việc, không dùng ấn nữa, cho đến đầu năm mới sau khi làm lễ Khai ấn, các công việc mới tiếp tục trở lại. Từ 25 tháng Chạp đến 11 tháng Giêng là thời gian vui Tết, triều đình ngưng giải quyết các công việc.
Dưới triều Nguyễn, nghi lễ Cáp hưởng được xem trọng. Đây là lễ tế cuối năm tại các miếu để mời các bậc tiên đế về ăn Tết, tổ chức ngày 30 tháng Chạp. Vua ngự ra Thế Miếu hoặc Thái Miếu làm chủ tế lễ. Các thân công (họ hàng của vua được phong tước công), hoàng tử, đại thần đi cúng tế ở các lăng tẩm, đền miếu, chùa quán ở kinh đô.
Lễ Thướng tiêu (lễ dựng cây nêu) tổ chức vào 30 tháng Chạp. Vua ngự ra điện Thái Hòa, các thân công, hoàng tử, các đại thần dựng nêu ở các lăng tẩm, đền miếu, chùa quán ở kinh đô sau đó thần dân mới dựng cây nêu tại nhà.
Trong và sau Tết cũng có nhiều lễ rất quan trọng. Quan trọng nhất là lễ mừng nhà vua. Sáng mùng một, tất cả thân công và văn võ bách quan đều mặc lễ phục. Thân công đứng hai hàng bên trong điện Thái Hòa, quan văn võ đứng hai hàng trên tầng sân rồng thứ nhất theo phẩm sơn (tả văn, hữu võ); các bô lão đứng ở tầng sân dưới và bên ngoài là binh lính, voi ngựa.
Biểu mừng Tết dành cho vua thường có nội dung: “Gặp Tết Nguyên đán, Tam dương tươi sáng; muôn vật sinh sôi. Non sông một cảnh tượng êm đềm, tiên bàn dâng Thụy; Cung khuyết ba sắc mây đầm ấm, giáp lịch mở đầu. Chúng thần thực lòng hoan hỉ, kính cẩn dâng biểu chúc mừng”. Sau đó các hoàng đệ, hoàng tử, công chúa đến mừng vua 5 lạy.
Nghi lễ mừng Thái hậu cũng được thực hiện trang trọng do các vua Nguyễn đề cao chữ hiếu, được tổ chức tại cung Trường Thọ (nay là cung Diên Thọ) – nơi Thái hậu ở, sinh hoạt. Lễ mừng Hoàng thái phi diễn ra tại điện Khôn Đức. Lễ mừng Hoàng thái tử diễn ra ở điện Thanh Hòa.
Đến ngày mùng 2, vua quan bái lạy tại điện Phụng Tiên (nơi thờ các vua Nguyễn); ngày mùng 3 đi thăm thầy dạy; ngày mồng 5 đi du xuân, thăm viếng lăng tẩm, chùa đền bên ngoài Kinh thành; ngày mồng 7 làm lễ Khai hạ (hạ nêu), các quan giữ ấn làm lễ Khai ấn, mở hòm ấn, tượng trưng bắt đầu công việc trong năm mới.
Ngoài ra còn nhiều lễ khác như Lễ tế cờ, có bắn 3 tiếng súng thần công với ý nghĩa xua đuổi tà ma ác quỷ. Lễ tế hưởng ở các miếu được thực hiện trang trọng khi vua làm chủ lễ tế ở Thái Miếu hoặc Thế Miếu; các công thần tế lễ ở các miếu còn lại.
Tương tự nhà hậu Lê, các vua triều Nguyễn cũng đãi yến dịp đầu xuân và thưởng tiền. Sáng mùng một, sau khi làm Lễ mừng nhà vua xong thì vua truyền chỉ ban tiền thưởng xuân và yến tiệc. Các hoàng thân, hoàng tử mỗi người được 20 lạng bạc, quan văn võ chánh nhất phẩm 12 lạng bạc, tòng nhất phẩm 10 lạng, chánh nhị phẩm 8 lạng.
Yến tiệc Tết mang dấu ấn đặc sắc văn hóa cung đình triều Nguyễn, thường tổ chức ở điện Cần Chánh và Tả Vu, Hữu Vu. Các quan phủ doãn, quan tỉnh dự tiệc yến ở hai bên, trước điện Thái Hòa.
Mỗi cuộc yến tiệc có nhiều sơn hào hải vị: yến sào, nem công, chả phụng, môi đười ươi, thịt chân voi... Sau đó, mỗi người được biếu một gói quà mang về cho con cháu. Nguyên vật liệu ẩm thực được cung cấp từ 3 nguồn trong cả nước.
Món ăn gồm nhiều loại từ thủy hải sản (yến sào, vây cá, bào ngư, hải sâm, cá khoai, tôm, cua…), cầm thú (gân hươu, thịt gà, dê, lợn, ngựa…), lương thực, chè, hoa quả, các loại bánh kẹo, mứt. Những món ngự thiện như nem công được xem như thần hộ mạng của các bậc đế vương bởi có công dụng giải độc tố.
Món chả phượng không rán mà chỉ gói vào lá chuối thật kín rồi đem hấp chín. Bàn tiệc không thể thiếu món gân nai, chè yến, chè hạt sen, môi đười ươi, bàn tay gấu, đệm chân voi…