Chuyện Tết Mậu Thân ở Sài Gòn: Những anh “Việt Cộng” dễ thương

Cách đây 40 năm, đúng vào đêm giao thừa Tết Mậu Thân - 1968, quân và dân ta đồng loạt tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn - Chợ Lớn và hơn 60 tỉnh, thành phố, thị xã, thị trấn ở miền Nam. Thắng lợi rất to lớn Tết Mậu Thân của quân và dân ta làm đảo lộn thế chiến lược của địch, làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” , làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta. Thắng lợi oanh liệt Tết Mậu Thân là cột mốc lịch sử,  tạo thế và lực mới cho quân và dân ta tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tiến lên giành toàn thắng trong cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975 lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Qua một số mẩu chuyện của nhà báo-chiến sĩ Kim Toàn (tức Cao Kim), nguyên phóng viên Báo Giải Phóng (cơ quan Trung ương của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam) tại mặt trận Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định thời chống Mỹ, bạn đọc có thể nhớ lại và hiểu thêm đôi nét về cuộc chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ mà lạc quan của quân, dân ta ở Sài Gòn - Chợ Lớn hồi Tết Mậu Thân  và tình nghĩa quân-dân nơi đô thành quật khởi.

 

“Việt Cộng” - tưởng đáng sợ lại dễ thương

Đêm mồng một Tết Mậu Thân 1968. Khi quân ta bất ngờ tấn công vào Đại sứ quán Mỹ, “dinh Độc Lập” và một loạt căn cứ quân sự của Mỹ - nguỵ tại Sài Gòn - Chợ Lớn, nhân dân thành phố rất vui mừng. Đang trong không khí đón Tết cổ truyền của dân tộc, nghe tiếng súng nổ ở khắp nơi, lúc đầu, nhiều người cũng ngỡ ngàng, chưa rõ điều gì diễn ra, nhưng thấy bọn Mỹ - Thiệu nhốn nháo, hoảng loạn, liên tiếp báo động, la lối om sòm rằng “Việt Cộng đánh lớn” và cuống cuồng lo đối phó thì mọi người hiểu ngay: chúng nó bị Quân Giải phóng tấn công thiệt rồi! Và ở nhiều phố, nhiều phường, bà con thấy xuất hiện Quân Giải phóng.

Mặc súng nổ, mặc xe quân sự Mỹ chạy nháo nhác trên đường phố và máy bay các loại gầm rú, bà con tìm mọi cách tiếp cơm, nước, bánh trái và dẫn đường cho bộ đội Giải phóng. Đông đảo nam nữ thanh niên xung phong tải đạn, cứu thương, giúp bộ đội làm công sự và gia nhập lực lượng tự vệ chiến đấu tại chỗ.

Nhưng không phải ai cũng làm như vậy . Không ít bà con sợ “Việt Cộng”. Nhìn thấy Quân Giải phóng, họ đóng chặt cửa hoặc bỏ chạy, vì lâu nay vẫn nghe bộ máy chiến tranh tâm lý của Mỹ - Thiệu bịa đặt rằng “Việt Cộng” là những người rừng, có đuôi; “Việt Cộng” sống man rợ và rất hung dữ…”

Hôm đó là mồng ba Tết. Sau một đêm chiến đấu căng thẳng, sáng ra, tôi cùng tổ chiến sĩ bốn người ém quân ở đường Minh Mạng, cùng đơn vị chuẩn bị đánh địch phản kích. Đường phố vắng tanh. Các nhà hàng đều đóng cửa. Bọn địch cho máy bay lên thẳng vũ trang bay rất thấp, vừa xả súng bắn vào các ngôi nhà chúng nghi có “Việt Cộng”, vừa phát loa kêu gọi cảnh sát Sài Gòn đang bỏ ngũ hãy trở lại làm việc.

Để không bị địch phát hiện, chúng tôi bàn nhau xin vào ngồi nhờ trong nhà dân ở gần đó. Tôi đến trước một ngôi nhà và gõ cửa. Đợi mấy phút mới có tiếng mở khoá. Một bà má chừng 60 tuổi ra mở cửa. Đứng sau má là hai cô gái lớn, cô nào cũng sực nức mùi nước hoa và son phấn. Cả ba người cứ chằm chằm nhìn chúng tôi. Bà má hỏi:

- Mấy ông là ai? Nhà tôi chỉ có mấy má con, toàn đàn bà, con gái, hổng biết gì…

- Dạ, thưa má, anh em chúng con đều là Quân Giải phóng. Cảm phiền má, cho chúng con vô ngồi nhờ trong nhà một chút rồi lại đi – Tôi nói.

- Mấy ông là Giải phóng? – Má hỏi lại.

- Dạ.

- Vậy là “Việt Cộng” phải không?

Ngần ngừ giây lát, má mời chúng tôi vô. Hai cô gái đứng nép về hai phía cửa và cứ nhìn sau lưng của mỗi chúng tôi, rồi vội chạy vô phòng trong. Bà má chỉ cho chúng tôi ngồi ghế ở gian ngoài, rồi lặng lẽ đóng cửa và cũng vô phòng trong nốt. Tôi nghe rõ tiếng bà nói với các con: “Đúng là Việt Cộng rồi, nhưng họ đàng hoàng, lịch sự, chớ đâu có dữ dằn, và làm gì có đuôi?”

Chúng tôi cầm súng ngồi xuống nền gạch hoa, dựa vào tường và cố ý không quay lưng vào phía bàn thờ ngày Tết của gia đình má đang lan toả hương thơm. Ngoài đường, thỉnh thoảng lại rộ lên những tiếng súng nổ từ đầu phố vọng lại. Máy bay lên thẳng vũ trang của Mỹ vẫn phành phạch lượn trên đầu. Ngồi chừng nửa giờ, chúng tôi lặng lẽ mở túi gạo rang cá nhân (tiêu chuẩn lương khô của mỗi đội viên Đội tuyên truyền vũ trang được phát) để ăn sáng. Nước uống đã có sẵn trong bình-tông mang theo. Bất chợt, từ phòng trong, bà má mở cửa bước ra. Má giữ lấy bọc gạo rang của chúng tôi, giọng nói như nghẹn lại:

- Mấy con hiểu cho má. Chỉ vì bọn giặc hay dò xét mà má ngại, chưa dám gặp ngay các con. Ngày Tết, phải chiến đấu gian khổ mà anh em ăn uống như vầy, má rầu lắm…

Bà má kêu hai cô con gái mang ra nào xôi, bánh tét, thịt heo; nào mứt sen, dưa hấu bổ sẵn và nước ngọt, bắt chúng tôi phải ăn uống thiệt tình. Má biểu, nếu cần gì, “anh em đằng mình” cứ nói, má và các em sẽ cố gắng làm. Bấy giờ, chúng tôi mới thấy hai cô gái cười.

Rất tiếc, khi hai cô gái vừa bày xong mâm cỗ thì đến lúc chúng tôi phải đi, không thể làm theo ý má. Chúng tôi cảm ơn má và chia tay các cô gái mới quen. Cô Sáu- cô chị, nhanh tay rót vào bình-tông của mỗi người chúng tôi một bình nước trà nóng; còn cô Bảy choàng lên vai mỗi người hai cặp bánh tét. Cô Sáu mỉm cười:

- Coi mấy anh, ai cũng hiền khô à! “Việt Cộng” - tưởng đáng sợ nhưng lại dễ thương! Chúc mấy anh đi mạnh giỏi nghe!

Biết ơn và khâm phục

Liên tiếp bị quân ta tấn công khắp nơi trong thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, suốt mấy ngày Tết, bọn Mỹ - nguỵ hoảng hốt huy động mọi lực lượng, kể cả xe bọc thép, pháo binh và máy bay các loại yểm trợ, chống trả điên cuồng.

Khoảng 8 giờ sáng mồng bảy tháng Giêng (tức ngày 5-2-1968), khi vừa dứt tiếng loa phóng thanh của bọn “tâm lý chiến” Sài Gòn chuyên nói xấu “Việt Cộng”, phát ra từ chiếc máy bay “đầm già”, thì một loạt đạn pháo của Mỹ bắn vào khu dân cư gần cầu Bình Tiên, bên Nhà máy chà xát gạo ở Chợ Lớn, bất chấp người dân vô tội không nơi trú ẩn. Một số người bị thương. Nhiều bà con sợ hãi chạy nhốn nháo ra đường. Họ căm phẫn nguyền rủa bọn Mỹ - Thiệu dã man. Các chiến sĩ Giải phóng vừa đến đây, vội hướng dẫn người dân tìm nơi tránh đạn. Pháo địch lại bắn tới. Tiếng nổ dữ dội, mảnh đạn văng rào rào khắp mọi phía. Khói, bụi bốc lên khét lẹt.

Lúc ấy, trên đường phố trống trải, cạnh chiếc xe đò không người, có hai cháu bé khoảng 5-6 tuổi (một trai, một gái) chạy theo gia đình tránh pháo, không may bị lạc, đang đứng khóc gọi má. Tiếng pháo giặc vẫn gầm rít trên đầu. Các cháu thơ ngây, đâu có biết mình đang đứng trong tầm sát thương của pháo! Nguy hiểm quá! Chưa ai kịp có cách gì đế cứu các cháu. Bất chợt, người ta thấy, từ công sự bên ngôi nhà gần đó, hai anh chiến sĩ Giải phóng cùng vọt lên, lao nhanh tới chỗ hai cháu bé. Một anh ôm cháu trai, lăn vào gầm chiếc xe đò đang đậu. Một anh vội kéo bé gái nằm xuống và lấy thân mình che chở cho bé. Vừa lúc, một trái pháo ác hiểm của Mỹ nổ gần, nghe đinh tai, nhức óc. Lửa, khói mù mịt. Hai cháu bé khiếp đảm khóc thét lên.

Khi pháo giặc ngừng bắn, bà con chạy ùa ra cùng hai anh chiến sĩ tiếp cứu các cháu. Mọi người lặng đi trước cảnh tượng đau thương: hai cháu bé vẫn an toàn và được cô bác đón đi tìm ba má, nhưng hai anh chiến sĩ Giải phóng còn nằm bất động trên vũng máu. Cả hai anh đều tắt thở do trúng mảnh đạn của giặc Mỹ.

- Trời ơi là trời! Vì lo cho dân được sống mà mấy ảnh phải nằm lại như vầy. Chúng tôi biết lấy gì đền đáp…

Mấy cô, bác la lên, giọng nghẹn ngào, xót xa. Bà con cùng các chiến sĩ Giải phóng đưa thi hài hai anh về tuyến sau trong nỗi tiếc thương, biết ơn và khâm phục những tấm gương hy sinh dũng cảm, cao cả mà chỉ “người đằng mình” mới có.

Hôm ấy, bà con khu vực cầu Bình Tiên chưa biết: hai anh chiến sĩ Giải phóng hy sinh thân mình để giữ sự sống cho dân đều cùng một tiểu đội trong Đội tuyên truyền vũ trang T4 (Khu Sài Gòn - Chợ Lớn – Gia Định). Người cứu cháu trai là anh Nguyễn Văn Hùng, quê Nam Bộ. Người cứu bé gái là anh Vũ Hồng Luân, tiểu đội trưởng, quê ở vùng Đất Tổ. Vũ Hồng Luân chính là cán bộ của Đài phát thanh Giải Phóng, tiếng nói của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam.

Bài ca tiến công

Buổi sáng mồng năm tháng Giêng, đơn vị chúng tôi đánh bật tất cả ba đợt phản kích điên cuồng của địch. Đến xế trưa, bọn địch lại mở đợt phản kích mới vào khu Bến Đá, quận Bảy, có xe bọc thép yểm trợ. Tiềng gầm rú của xe quân sự, tiếng nổ của các loại súng làm rung chuyển cả đường phố. Bầy máy bay lên thẳng vũ trang của Mỹ kéo đến, sà rất thấp, bắn như đổ đạn xuống trận địa. Chúng tôi nổ súng đánh trả. Chúng bay vọt lên cao; còn các xe bọc thép chựng lại. Bỗng có tiếng nói lớn, giận dữ:

- Bọn Mỹ, đồ chó đẻ!

Tôi quay sang công sự bên cạnh thì thấy Thành, một chiến sĩ trẻ của đơn vị, mặt mũi bê bết máu.

- Thành bị thương rồi! – Tôi nhoài người, vội bò tới cùng một chiến sĩ băng tạm cho Thành và dìu anh về phía sau.

Đạn địch nổ chát chúa trên đầu. Chúng tôi đưa Thành đi được khoảng hơn mười mét thì anh lảo đảo ngồi xuống.

- Thôi, cứ để tôi ở đây, mấy anh lo chiến đấu đi! – Thành giục

- Không được! Thành phải đi cấp cứu ngay - Tôi nói

Anh lắc đầu, đưa mắt nhìn chúng tôi. Rồi đột nhiên - thật bất ngờ, Thành khẽ cất tiếng hát. Thành hát giữa lúc máu ướt đẫm bên mặt, giữa lúc tiếng súng của quân ta nổ rền. Người Thành run lên, nhưng tiếng hát của anh nghe vẫn rõ: “Toàn dân ta đã vùng lên… vâng theo lời Bác kêu gọi…”

Chúng tôi đỡ Thành nằm. Tôi hiểu vì sao đang lúc đau đớn và giữa giờ phút gay go, quyết liệt này, anh lại cất tiếng hát và chọn bài Bác Hồ kêu gọi toàn dân chống Mỹ.

Lúc ấy, một chiếc xe bọc thép địch hùng hổ lao đến. Súng chống tăng của đơn vị chúng tôi nhả đạn. Khối thép ấy bốc lửa.

Thành vẫn nằm cạnh chúng tôi, bên một bức tường đổ, máu ra nhiều. Tôi tưởng người đồng chí thân yêu của mình đã ngừng thở sau khi hát những tiếng cuối cùng, nhưng anh chợt tỉnh và đưa hai bàn tay đầy máu của mình rờ lên người chúng tôi, nói ngắt quãng:

- Các đồng chí đâu? Tôi tiếc chưa được gặp Bác Hồ…., tiếc lắm! Bây giờ, tôi không thể… Thôi, các đồng chí mình ráng lên, học gương anh Trỗi..., nhớ lời Bác...

Nguyễn Văn Thành đã hy sinh anh dũng giữa Sài Gòn, thành phố quê hương trong những ngày đầu Xuân Mậu Thân lịch sử, nhưng tiếng hát của anh vẫn văng vẳng bên tai chúng tôi như nhắc nhở, giục giã mọi người xông tới.

Ngay trận chiến đấu tiếp đó, toàn đơn vị chúng tôi nổ súng mãnh liệt vào bọn Mỹ - nguỵ, buộc chúng phải rút khỏi khu vực, để lại hơn 50 xác lính và 3 xe bọc thép phơi mình giữa đường phố.

Kim Toàn