Chuyện kể về “anh hùng Rì”

                                                     Phương Nam – Trọng Chính

 

Chúng tôi tìm đến nhà anh hùng Đinh Văn Rì (xã Lập Lễ, huyện Thuỷ Nguyên) vào một chiều thu. Qua con phà nhỏ sang đến đất Thuỷ Nguyên, nơi đặt chân đầu tiên là xã An Lư chứ không phải xã Lập Lễ như chúng tôi vẫn tưởng. Chợt ngại ngần không biết hỏi tên ông ở bến đò này liệu có ai biết? Nhưng thật không ngờ, vừa cất lời, người dân nơi đây đã chỉ cho chúng tôi tường tận đường  đến nhà “anh hùng Rì” mặc dù nhà ông cách đó  hơn 5km.

Chiếc xe máy chồm lên, chồm xuống bởi con đê ngoằn ngoèo, mặt đê gồ ghề. Gió sông thổi vào mát lạnh khiến con đường bớt xa và cảnh vật hai bên thêm bình yên. Qua vài chặng rẽ, chúng tôi tới ngôi nhà bình dị nằm bên gốc cây gạo, sát trục đường chính của xã. Thật may mắn vì không hẹn trước nhưng chúng tôi gặp ông ở nhà, một ông lão cao lớn, quắc thước, nhanh nhẹn. Sự niềm nở của ông khiến cuộc trò chuyện của chúng tôi thêm  ấm cúng.

Trò chuyện với chúng tôi, ông không nhắc nhiều đến những trận đánh sinh tử chiến tranh, không “khoe” về thành tích trong chiến đấu của mình, nhưng chúng tôi cảm nhận được cựu chiến binh này luôn mang trong mình những kỷ niệm của lớp người coi quá khứ hào hùng là hành trang để sống tốt hơn giữa đời thường.

 

Anh hùng trong chiến đấu

Năm 1965, đất nước bước vào cuộc chiến đấu đầy cam go với giặc Mỹ ở cả 2 chiến tuyến Nam-Bắc. Giống như lớp thanh niên lúc ấy luôn trào dâng nhiệt huyết tuổi trẻ, hăng hái lên đường bảo vệ đất nước, chàng trai Đinh Văn Rì tạm biệt quê hương vào bộ đội. Chỉ khác với nhiều bạn cùng trang lứa lúc đó là khi lên đường, anh Rì đã có… vợ và 2 con! Ngày đầu sống cuộc đời quân ngũ, anh là chiến sĩ DKZ ở đại đội 13, tiểu đoàn 6, sư đoàn 350 thuộc Quân khu 3. ít lâu sau anh chuyển loại sang chiến sĩ 12 ly 7, rồi đến pháo phòng không 37 ly. Cuối năm 1966, đơn vị anh được lệnh hành quân cơ động bảo vệ các tuyến đường giao thông vận tải huyết mạch của Quân khu 4. ác liệt nhất là thời kỳ 1966-1967 bảo vệ bến phà Xuân Sơn và Đường 20 Quyết Thắng ở Quảng Bình. Bến phà Xuân Sơn nổi tiếng là mạch máu giao thông vận tải đưa người, hàng hoá từ hậu phương lớn miền Bắc vào tiền tuyến lớn miền Nam. Là huyết mạch giao thông nên bến phà bị địch đánh phá ác liệt không kể ngày đêm. Ban ngày chúng đánh bằng máy bay F105, F4, đêm chúng dùng máy bay B52 thả pháo sáng rực trời. Có thời gian chúng thả bom từ trường, rốc két đỏ cả 2 bên bến phà. Một lần anh Rì từng “hút chết” khi cùng cán bộ tiểu đoàn sang bờ Bắc phà Xuân Sơn họp, giữa đường xe gặp bom từ trường nổ hất tung khỏi xe nhưng thật may chỉ bị thương nhẹ. Bến phà Xuân Sơn có vị trí đặc biệt quan trọng  nên yêu cầu bảo vệ an toàn bến phà được đặt lên hàng đầu.  “Mặc dù mệt nhoài vì máy bay địch quần đảo liên tục trên bầu trời nhưng hôm nào không được lên mâm pháo lại thấy “nhớ”, ông  Rì vừa kể lại hồi ức vừa cười.

Ông  bị thương và được phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” khi chiến đấu tại địa điểm này? tôi hỏi. “Không, tôi bị thương cũng trên vùng đất Quảng Bình nhưng ở trận địa cách đó mấy chục cây số”. Rồi ông  kể: Năm 1968, tôi đi dự Đại hội Đảng bộ tiểu đoàn. Từ trận địa của đại đội chiến đấu đến tiểu đoàn khoảng 3-4 km. Trước khi khai mạc đại hội thì phát hiện máy bay địch hoạt động trong khu vực. Dự kiến địch sẽ đánh vào một số trận địa gần đó nên tiểu đoàn cho các đaị biểu nghỉ họp về chiến đấu. Tôi chạy bộ từ tiểu đoàn bộ về trận địa thì nghe đại đội trưởng hô: Đồng chí Rì lên đánh pháo thủ số 4” Vừa vào vị trí xong thì 1 tốp, rồi 2 tốp  máy bay F4 lượn vào, chúng bay thấp, bay cao rồi bổ nhào đánh trận địa. Nghe tiếng hô dõng dạc của đại đội trưởng, các trận địa đồng loạt nhả đạn. Hết loạt đạn đầu, 1 chiếc máy bay rơi tại chỗ cách đó khoảng 100 mét, tên giặc lái nhảy dù thoát ra ngoài. Đại đội cử một tổ đi bắt giặc lái nhưng không được vì bọn Mỹ đã kịp thời gọi thêm một đội máy bay đến cứu tên phi công, chúng bắn đạn xối xả thành vòng tròn bảo vệ giặc lái ở giữa ngăn không cho ta vào. Cuối cùng, không cứu được giặc lái, chúng nhả đạn bắn chết viên phi công rồi chuồn thẳng. Trận đánh đó ta thắng đậm nhưng hy sinh 2 chiến sĩ, bị thương 6-7 người. Chính tôi cũng bị dính một viên bom bi vào mặt làm gãy xương hàm và rụng răng, máu chảy ướt hết vai áo. Sau đó tôi được đi điều trị tại Viện quân y 103 nhưng không khỏi, khi tái phát, tôi lại phải nằm viện. Lần thứ 2 phẫu thuật mới lấy được viên bi khỏi má. Vì vết thương này mà mặt tôi đem xạm đi, đen đến độ khi về thăm nhà, các con không nhận ra bố, cứ tò mò nhìn như “người châu Phi” lạc đến!.

Sau chiến thắng này, Đinh Văn Rì được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng 3 và ngày 25-8-1970 được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. “Thực lòng tôi rất bất ngờ vì không nghĩ mình được nhận danh hiệu cao quý đó, chỉ nghĩ vì dân tộc, vì quê hương phải chiến đấu hết sức mình. Khi ấy tôi mới là trung đội trưởng trung đội 2 đại đội 13” Ông Rì bộc bạch. Có lẽ vì suy nghĩ giản dị ấy mà cả cuộc đời ông không màng đến danh lợi, cả khi đã là điển hình của toàn quân được đi kể chuyện chiến trường sau khi đất nước giải phóng, đến khi là trung tá, Phó trung đoàn trưởng quân sự  đơn vị 591, (nay là tiểu đoàn 105 thuộc Sư đoàn B63) ông luôn chan hoà, thân ái với anh em, đồng chí.

 

Bình dị giữa đời thường.

Nhiều người ngạc nhiên khi thấy về nghỉ hưu tại quê nhà, anh hùng Đinh Văn Rì lại làm nghề …lái đò ngang trên sông Cấm. Mỗi ngày đạp xe  mấy cây số từ nhà đến bến đò, chở người sang sông vào nội thành làm ăn, buôn bán. Công việc khá vất vả mà thu nhập chẳng đáng là bao. Song ông  rất vui vì được góp chút công sức, việc làm của mình trong cuộc sống. “Thực ra khi mới về nghỉ hưu, lãnh đạo địa phương có ý mời tôi tham gia công tác nhưng tôi từ chối vì muốn mình được thảnh thơi giữa đời thường. Vướng vào vòng quyền lực, chức tước dễ dẫn đến đua tranh khiến đầu óc không được thanh thản”, ông lý giải khi thấy chúng tôi có vẻ ngạc nhiên. Thế là ngày ngày bên chiếc đò ngang vui cùng sông nước, ông hiểu thêm biết bao chuyện đời, cảnh người mà khi trong quân ngũ ông chưa có thời gian tìm hiểu. Về hưu, thay vì nhà cửa bề thế, khang trang, ông chỉ vui vầy cùng vợ và con cháu trong ngôi nhà bình dị. Niềm vui của ông  là một gia đình hạnh phúc, con cháu thành đạt, ngoan ngoãn, giữ được nếp nhà. Vài năm nay, sức khoẻ giảm sút, ông không còn chở đò qua sông nhưng những người  thường đi qua bến đò này đều nhắc đến ông với thái độ yêu quý và kính trọng. Ông không chỉ là vị anh hùng trong chiến đấu mà với nhiều người dân, ông là một anh hùng giữa đời thường. ./.