Chuyện ba thương binh trên vùng Tây Bắc
QTV - Mảnh đất Tây Bắc - nơi diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử chấn động địa cầu, nơi sinh ra và nuôi dưỡng biết bao anh hùng đã và đang chuyển mình đi lên trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Đóng góp vào thành công ấy là những việc làm thầm lặng, kiên trì mà không kém phần dũng cảm của những anh Bộ đội Cụ Hồ, những thương binh “tàn nhưng không phế”.
QTV - Mảnh đất Tây Bắc - nơi diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử chấn động địa cầu, nơi sinh ra và nuôi dưỡng biết bao anh hùng đã và đang chuyển mình đi lên trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Đóng góp vào thành công ấy là những việc làm thầm lặng, kiên trì mà không kém phần dũng cảm của những anh Bộ đội Cụ Hồ, những thương binh “tàn nhưng không phế”.
“Trên chiến trường, quân và dân ta đã giành những thắng lợi to lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trên mặt trận sản xuất hôm nay cũng cần ngọn cờ của Đảng, cần đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Anh thương binh - đảng viên Nguyễn Đức Toàn nói vậy và làm cũng theo vậy…
Trở về sau gần 20 năm trong quân ngũ, mặc dù có tiêu chuẩn thương binh, được hưởng một số ưu đãi của địa phương, nhưng anh Toàn vẫn tích cực tham gia các công tác tại địa phương như gánh trách nhiệm phó bí thư chi bộ, đội trưởng sản xuất rồi chủ nhiệm hợp tác xã. ở cương vị nào anh cũng luôn động viên gia đình và bà con vượt lên những khó khăn, tích cực sản xuất. Cuối năm 1994, đợt một phong trào xây dựng vùng kinh tế mới của huyện không thành công vì phần lớn bà con đi rồi lại quay về do không thích ứng được với vùng đất mới. Được sự phân công của cấp ủy, anh cùng bốn đảng viên khác làm nòng cốt dẫn dắt 100 hộ dân của huyện Lý Nhân (Hà Nam) đi xây dựng vùng kinh tế mới đợt hai tại xã Pắc Ta, huyện Than Uyên (Lai Châu hiện nay).
Những ngày đầu trên vùng đất mới thật nhiều khó khăn. Điều kiện khắc nghiệt ở vùng cao Tây Bắc với những triền đồi dốc, đất canh tác chật hẹp, giao thông khó khăn khiến cho không ít người, trong đó có cả đảng viên lại “bỏ của chạy lấy người”. Nhưng nghĩ về những cực khổ trong cảnh nhà nghèo vùng đồng chiêm trũng mình từng trải qua, nghĩ về những thử thách quyết liệt khi tham gia các chiến dịch Bắc Kon Tum (năm 1966), Mậu Thân (1968), Nguyễn Huệ tại Đồng bằng sông Cửu Long (1971), chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử và cả những ngày tham gia quân tình nguyện tại Cam-pu-chia, anh Toàn thấy không lý gì không vượt được những khó khăn trong xây dựng kinh tế mới.
Anh tâm sự: Muốn vượt qua khó khăn, thử thách mới thì phải phát huy bản chất bộ đội Cụ Hồ. Với cương vị bí thư chi bộ và chủ nhiệm hợp tác xã, tôi từng nhận được nhiều lời rủ rê, thậm chí cả đe dọa của những người không chịu được gian khổ, muốn quay về. Những lúc đó, câu nói “tàn nhưng không phế” của Bác Hồ trở thành nguồn lực giúp tôi đứng vững và vượt mọi khó khăn.
Anh xác định: Để lãnh đạo phải được dân tin, muốn dân tin thì không cách nào khác là phải tuyên truyền, lãnh đạo bằng hành động cụ thể. Anh cùng các đảng viên trong chi bộ đi đầu trong mọi hoạt động của địa phương, nhất là trong sản xuất. Những năm trước đây, vùng đất Than Uyên chỉ cấy lúa một vụ, năng suất thấp, đời sống bà con các dân tộc trong huyện rất khó khăn, nhiều hộ thiếu gạo ăn trong nhiều tháng. Nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy đề ra chủ trương lãnh đạo nhân dân canh tác hai vụ lúa và trồng ngô, đậu tương hàng hóa. Các đảng viên trong chi bộ vận động gia đình đi trước trồng thí điểm ngô bioxit, gieo cấy thêm vụ chiêm xuân trên diện tích đất ruộng nhà mình. Dần dần, cùng với những việc làm cụ thể khác, nghị quyết của tỉnh, huyện đi vào cuộc sống. Từng bước bà con làm theo, thoát khỏi cảnh đói ăn, vươn lên giàu có. Bản thân gia đình anh Nguyễn Đức Toàn với mô hình vườn - ao - chuồng khép kín đã cho thu nhập hàng năm xấp xỉ 100 triệu đồng. Từ năm 2001, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Pắc Ta Nguyễn Đức Toàn không chỉ làm giàu cho gia đình mà còn tích cực trợ giúp cả vốn và kỹ thuật cho bà con trong xã, nhất là những người đồng đội. Những người lính năm xưa như các anh Tòng Văn Tắm (dân tộc Thái), Vàng Giùn Quang (dân tộc Dao)... nhờ những giống lúa, giống ngô do anh trợ giúp đã thoát nghèo. Nhiều bà con dân bản được anh hướng dẫn kỹ thuật đã biết cách làm ăn, có thu hoạch cao hơn trên đồng ruộng nhà mình…
“Ngày hôm đó chắc chẳng bao giờ tôi quên được, vẫn nhớ như in cảm giác sung sướng, tự hào khi giơ tay thề trước cờ Đảng. Tôi luôn tự hứa với lòng mình đã là bộ đội Cụ Hồ, là người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam thì phải xứng đáng với danh hiệu cao quý đó cả trong thời chiến và cuộc sống đời thường”. Anh đảng viên - thương binh 2/4 Nông Văn Thề tại thôn Sín Chải A, xã Na Hối, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai cởi mở nói với chúng tôi như thế.
Năm 1965, khi mới ngấp nghé cái tuổi “bẻ gãy sừng trâu”, theo lời dạy của Bác Hồ, tiếng gọi của miền Nam yêu dấu, người thanh niên dân tộc Nùng của vùng núi rừng Bắc Hà đã tình nguyện viết đơn xin ra chiến trường đánh Mỹ xâm lược. Những ngày hành quân liên tiếp, biết bao núi đồi đã qua dưới chân anh; những trận chiến ác liệt không làm anh nản chí. Anh kể: Có những trận đánh, khi tiếng súng tạm yên, cả tiểu đội chỉ còn có mấy người, gánh cơm của anh nuôi “ế” cả, đau xót lắm cô ạ! Nhưng những người lính chúng tôi không hề run sợ. Cái chết lúc ấy đối với chúng tôi cũng đơn giản như khi cầm bút viết lá đơn tình nguyện xin ra chiến trường vậy.
Năm 1970, do những hành động dũng cảm trong trận chiến ác liệt Lộc Ninh 1, anh là một trong ba chiến sĩ được vinh dự kết nạp vào Đảng ngay tại mặt trận. Anh tiếc là những mảnh đạn, mảnh bom Mỹ đã khiến anh không được tiếp tục chiến đấu nữa (anh bị thương ở ngực, thái dương, chân và mất bàn tay phải).
Đầu năm 1974, Nông Văn Thề về điều dưỡng tại Quân khu Tả Ngạn (Nam Hà). Tại đây anh gặp người phụ nữ của cuộc đời mình. Cuối tháng 12-1974, anh cùng người vợ trẻ quê Hà Nam trở về Bắc Hà, gây dựng cuộc sống mới. Khi về, vợ chồng anh không ruộng, không nương, không vốn, phải ở nhờ nhà cha mẹ… Anh tâm sự: Có lúc chảy nước mắt vì thấy cực quá cô ạ! Nhưng, nhớ lời hứa trước Đảng, trước Bác năm xưa, thương người vợ lặn lội từ miền xuôi lên, thương con nhỏ, ngày ngày anh tập làm bằng tay trái để cùng vợ phát nương, phát rẫy, gieo lúa, trồng ngô, nuôi gà, lợn giống... Sự chịu thương, chịu khó đã được bù đắp: Sau ba năm vợ con anh có cái ăn, cái mặc. Năm 1991, gia đình anh và các hộ trong xã, huyện được Nhà nước giúp vốn bằng cách giao cho những gốc mận tam hoa. Anh chăm chút từng cây mận, chọn những cây nhiều quả, quả to để ghép, nhân giống. Từ lúc chỉ có hơn 100 gốc đến nay vườn nhà anh có hơn 600 cây. Vào năm mận được giá, thu tới 50 triệu đồng. Gia đình anh là một trong ba hộ khá nhất xã về thu hoạch mận. Vợ chồng anh dựng được nhà cột kê, lợp ngói đầu tiên trong xã. Thấy anh làm ăn khấm khá, bà con đến học hỏi. Anh không giấu giếm bí quyết, trao đổi với các hộ trong xã về cách nhân giống mận, cách nuôi, chọn lợn, gà giống để đạt năng xuất cao…
Anh mong muốn các cựu chiến binh trong xã cũng đi đầu trong phát triển kinh tế gia đình. Năm 1989, anh tập hợp được trên 30 đồng chí và đứng ra thành lập Hội Cựu chiến binh xã Na Hối. Anh cùng các cựu chiến binh góp vốn giúp nhau làm kinh tế. Nhờ đó, cuộc sống anh em từng bước khá lên. Đồng chí Thân Từ Chẩn, thôn Cốc Môi, sau khi đi bộ đội về ốm đau nhiều, cuộc sống rất vất vả, nay nhờ Hội, nhờ xã mà con cái trưởng thành, cuộc sống no ấm…
Anh còn quan tâm giáo dục, giúp đỡ đoàn viên trẻ vào Đảng. Anh cho rằng, các bạn trẻ bây giờ phải nối tiếp truyền thống cha anh, xây dựng vùng quê Bắc Hà giàu mạnh hơn thế hệ trước. Anh đã theo dõi, giúp đỡ, giới thiệu ba quần chúng vào Đảng. Nay cả ba đều trưởng thành: Đồng chí Sềnh Gieo Lỳ hiện là Bí thư Đảng ủy xã Na Hối; Nông Văn Tờ là Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân xã; Lùng Văn Thiết là xã đội trưởng, hiện đang học trung cấp an ninh và còn hai bạn trẻ trong thôn đang chuẩn bị được gia nhập Đảng…
Những cố gắng của người đảng viên, thương binh Nông Văn Thề được ghi nhận: Năm 2003, được tặng Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh xã hội về phấn đấu vươn lên đạt thành tích xuất sắc trong lao động và học tập; năm 2004, dự Hội nghị biểu dương người tàn tật, trẻ em mồ côi… tiêu biểu lần thứ nhất do Bộ Lao động - Thương binh xã hội tổ chức; dự Hội nghị biểu dương người có công tiêu biểu xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ của tỉnh Lào Cai…
“Khi mới nghỉ hưu, các con, cháu đều khuyên mình nghỉ ngơi, không tham gia công tác gì nữa. Chúng nói, bố đã cống hiến gần cả đời người cho Đảng, cho đất nước rồi. Thế nhưng, mình nhớ lời hứa thiêng liêng khi tuyên thuệ trước cờ Đảng, mình tâm nguyện phải cống hiến đến hơi thở cuối cùng”, người thương binh dân tộc Thái Lò Văn Lún tâm sự những lời như vậy với chúng tôi. Nhìn sâu vào đôi mắt anh, chúng tôi nhận thấy nhiệt tình, lòng hăng hái trong người thương binh ấy quả là không gì có thể làm suy suyển.
Anh sinh năm 1943 tại xã Mường Pồn, huyện Điện Biên (nay thuộc tỉnh Điện Biên). Chưa học hết chương trình phổ thông ở huyện, anh thanh niên Lò Văn Lún tình nguyện trở về quê mở lớp xóa mù chữ cho bà con trong bản. Anh Lún nhớ lại: Những ngày đầu mở lớp thật vất vả. Lán học thì tạm bợ, chỉ đủ che mưa, che nắng; bàn ghế, bảng đen chẳng có, thầy và trò cứ ngồi xệp xuống nền mà học. Nhiều lúc thấy cũng nản. Nhưng nhìn bà con và nhất là bọn trẻ muốn học, mình lấy lại được quyết tâm. Chính từ lớp học này, nhiều bà con trong bản đã biết viết, biết đọc tờ báo Đảng. Một số em sáng dạ sau vài năm học đã trở thành “thầy giáo”, có thể truyền lại những con chữ cho chính đồng bào mình. Anh tâm sự: Khi nhập ngũ, mình hoàn toàn yên tâm. Bởi thay mình đã có những “đồng nghiệp” tận tâm. Con em trong bản không còn lo đói chữ nữa.
Phát huy truyền thống Điện Biên Phủ hào hùng, Lò Văn Lún tiếp bước cha anh lên đường bảo vệ quê hương. Năm 1964, sau một năm tham gia quân ngũ, anh cùng đơn vị được điều động sang làm nhiệm vụ quốc tế tại nước bạn Lào. Mười năm vừa đánh giặc, vừa làm công tác giúp đỡ, huấn luyện quân đội Pathét Lào đã để lại cho anh những kỷ niệm không bao giờ quên. Người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam không chỉ anh dũng trong chiến đấu mà còn là cán bộ dân vận. Các anh cùng ăn, cùng ở, cùng làm với bà con các dân tộc Lào, được yêu quý như con cái trong nhà. Tình cảm ấy là nguồn động viên, cổ vũ lớn giúp các anh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Mười năm tham gia chiến đấu, anh đã để lại một phần xương máu trên đất bạn, được tặng thưởng ba Huân chương Chiến công hạng Nhất, 8 Huân chương chiến công hạng Nhì cùng nhiều bằng khen, giấy khen các loại. Cũng trong 10 năm, anh lần lượt đảm nhiệm các chức vụ từ Tiểu đội phó lên đến Tiểu đoàn trưởng của Tiểu đoàn 4 anh hùng. Với các thành tích, chiến công lập được, anh được cử đi học bổ túc văn hóa rồi học tại Học viện Cao cấp (nay là Học viện Quốc Phòng) để tiếp tục nâng cao trình độ.
Khi chiến tranh biên giới phía Bắc bùng nổ, tạm gác chuyện học hành, anh Lò Văn Lún được điều về làm Tham mưu trưởng Sư đoàn 326, trấn giữ trên vùng đất Phong Thổ - Lai Châu. Năm 1982, sau khi hoàn thành chương trình học tại Học viện Cao cấp anh trở về Sư đoàn 326, rồi chuyển công tác về làm tham mưu phó tại Tỉnh đội Lai Châu từ năm 1984 đến năm 1991.
15 năm tham gia hoạt động tại địa phương, anh Lò Văn Lún đã trải qua nhiều cương vị công tác, từ Chủ tịch Hội Cựu chiến binh huyện, Chi hội trưởng chi hội Cựu chiến binh khu phố và nay là Bí thư chi bộ Tổ dân cư 25, phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên, tỉnh Điện Biên. ở cương vị công tác nào, anh cũng luôn cố gắng hoàn thành chức trách được giao. Anh nói: Công việc khó khăn đến đâu cũng phải gắng làm. Mà đã làm thì phải làm đến nơi đến chốn. Đức tính cương trực, quyết liệt của người lính ở anh bộc lộ trong mọi công việc. Các tổ chức đoàn thể do anh đứng đầu đều giữ được nền nếp, kỷ luật. Vì vậy các nghị quyết do chi bộ đề ra và lãnh đạo đều được nhân dân trong khu phố đồng tình, thực hiện. Các tổ chức đoàn thể dưới sự lãnh đạo của chi bộ Tổ dân cư 25 cũng hoạt động đều tay, nhất là Chi hội Cựu chiến binh. Những kết quả lãnh đạo của Chi bộ tổ dân cư 25 do đồng chí Lò Văn Lún làm bí thư đã và đang góp phần xứng đáng vào các phong trào phường Mường Thanh, trong xây dựng quê hương Điện Biện anh hùng.
Theo xaydungdang.org.vn