Chương trình xây dựng thành phố “5 không"
Ủy ban Nhân dân thành phố ban hành chương trình tiếp tục thực hiện tốt ""Chương trình xây dựng thành phố “5 không”; xóa đói giám nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng các hoạt động y tế, thể dục - thể thao"" với những nội dung cụ thể sau đây:
CHƯƠNG TRÌNH
xây dựng thành phố “5 không”; xóa đói giảm
nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động;
nâng cao chất lượng các hoạt động y tế, thể dục - thể thao
(Ban hành kèm theo Quyết định số 136/2004/QĐ-UB ngày 12 tháng năm 2004 của UBND thành phố Đà Nẵng
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ XVIII, ngày 05/12/2000, Ủy ban Nhân dân thành phố đã ban hành Quyết định số 129/2001QĐ-UB về việc ban hành kế hoạch thực hiện chương trình thành phố “5 không”. Trên cơ sở từng đề án cụ thể đã được Ủy ban Nhân dân thành phố thông qua, các ngành, các cấp đã phối hợp nhịp nhàng, triển khai đồng loạt nên đã thu được nhiều kết quả thiết thực, góp phần thúc đẩy sự phát triển về kinh tế của thành phố nhanh và bền vững. Tuy nhiên, quá trình thực hiện chương trình “5 không” của thành phố hiệu quả đạt được chưa cao, đang còn những khó khăn, tồn tại nhất định.
Để triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động của Thành ủy triển khai Nghị quyết 33/NQ-TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; Ủy ban Nhân dân thành phố ban hành chương trình tiếp tục thực hiện tốt ""Chương trình xây dựng thành phố “5 không”; xóa đói giám nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng các hoạt động y tế, thể dục - thể thao"" với những nội dung cụ thể sau đây:
I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG THÀNH PHỐ “5 KHÔNG”; XỐA ĐÓI GIẢM NGHÈO, GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG, NÂNG CAO CHẤT LƯƠNG CÁC HOẠT ĐỘNG Y TẾ, THỂ DỤC - THỂ THAO” CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG THỜI GIAN QUA (2001-2003).
- Đầu năm 2001 toàn thành phố có 9.769 hộ nghèo (không có hộ đói). Theo chỉ tiêu đề ra: bình quân mỗi năm giảm 1,30% (tương ứng 1.905 hộ), để đến năm 2005 toàn thành phố không còn hộ nghèo theo chuẩn của Trung ương. Thực tế bình quân mỗi năm thành phố giảm 1,62% (tương ứng 2.400 hộ), đưa tỉ lệ hộ nghèo của thành phố từ 6,66% (2001) xuống còn 1,80% (cuối năm 2003);
- Đối với mục tiêu “không có người mù chữ”. Trong những năm qua thành phố đã chỉ đạo tích cực và đã hoàn thành việc “xóa mù chữ đến người cuối cùng” trong độ tuổi 15-35 ở 6 quận, huyện; nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi đạt tỉ lệ 94%, hoàn thành phổ cập giáo dục THCS; có 47/47 xã, phường phổ cập giáo dục THCS đúng độ tuổi và 19/47 xã, phường phổ cập giáo dục bậc trung học;
- Đối với người “lang thang xin ăn”: thành phố đã chỉ đạo kiên quyết từ đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị cho 2 Trung tâm (Bảo trợ xã hội và Trung tâm điều dưỡng người tâm thần) thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội để đủ sức phân loại đưa họ về hòa nhập cộng đồng hoặc quản lý, nuôi dưỡng tập trung đến việc hình thành tổ chuyên trách, lập đường dây nóng, trang bị xe chuyên dùng, thưởng cho người phát hiện để thu gom được người lang thang... đã đem lại kết quả thiết thực.
Qua 3 năm (2001-2003) toàn thành phố thu gom được 1.051 lượt người lang thang xin ăn (có 191 người tập trung lần thứ 2 trở lên). Đồng thời cũng đã giải quyết đưa về hòa nhập cộng đồng hoặc về các địa phương ngoài thành phố 977 người. Nhìn chung, do thành phố làm mạnh và kiên quyết, nên số người lang thang xin ăn giảm (2001 còn 378; 2002 còn 341; 2003 còn 332). Đặc biệt tỉ lệ tái lang thang giảm mạnh (so với năm trước, năm 2001 giảm 21,7%; 2002 giảm 17,7% và 2003 giảm 3,34%).
- Người nghiện ma túy là vấn đề bức xúc nhất trong lĩnh vực xã hội, nên thành phố đã tập trung mọi nguồn lực, đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, tăng cường cán bộ (kể cả 47 chuyên trách về lĩnh vực ma tuý tại 47 xã, phường) để thực hiện được mục tiêu ""không có người nghiện ma túy trong cộng đồng”. Trong thời gian qua, Ủy ban Nhân dân thành phố đã chỉ đạo các ngành, các cấp phát hiện triệt phá và xử lý 189 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ, tổ chức, sử dụng các chất ma tuý. Khởi tố 106 vụ, bắt 169 đối tượng và xử lý hành chính 83 vụ có liên quan về ma túy trên địa bàn thành phố. Đến cuối năm 2003 toàn thành phố có 558 con nghiện (đang cai nghiện tại Trung tâm Giáo dục-Dạy nghề 05-06 thuộc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, 340 người và quản lý sau cai tại cộng đồng 218 người) gồm: Hải Châu 208; Thanh Khê 272; Liên Chiểu 23; Sơn Trà 22; Hoà Vang 20 và Ngũ Hành Sơn 13);
- Đối với loại tội phạm ""giết người để cướp của”, mặc dù từ 2001 đến nay chỉ có 02 vụ, nhưng đã để lại sự bức xúc trong dư luận xã hội, đó là tiềm ẩn của loại tội phạm nguy hiểm trong cộng đồng cần được quan tâm tập trung xử lý;
- Đối với chương trình giải quyết việc làm cho người lao động: thành phố coi đây là nguồn lực quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy đã tập trung chỉ đạo các trường, các trung tâm, các ngành, các cấp, các doanh nghiệp trên địa bàn... phối hợp chặt chẽ từ đào tạo, tuyển dụng đến việc thực hiện chính sách đối với người lao động;
Qua Hội chợ việc làm hàng năm, các Trung tâm Dịch vụ việc làm trong 3 năm (2001-2003) và các cơ sở, tổ chức khác trên địa bàn thành phố, 60.000 lao động có chỗ việc làm mới, góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp từ 5,54% (2001) xuống còn 5,17% (2003), đồng thời tăng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn từ 79,6% (2001) lên 81,2% (2003).
Quá trình giải quyết việc làm cho người lao động, thành phố cũng đã quan tâm đến nhu cầu dịch chuyển lao động theo cơ cấu của nền kinh tế nhằm thúc đẩy kinh tế thành phố phát triển. Trong 3 năm, cơ cấu lao động của thành phố đã giảm, lao động thuỷ sản nông lâm từ 24,71% (2001) xuống còn 21,37% (2003); đồng thời tăng lao động lĩnh vực công nghiệp-xây dựng từ 35,02% (2001) lên 36,50% (2003) và lao động lĩnh vực thương mại-dịch vụ tăng từ 39,93% (2001) lên 42,13% (2003).
Đào tạo nghề để người lao động tự tìm việc làm hoặc đào tạo nghề nhằm đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp, phát triển kinh tế cũng được thành phố quan tâm. Qua 3 năm đào tạo nghề đã tăng từ 14,15% (2001) lên 18,80% (2003).
- Về lĩnh vực y tế: Thành phố đã tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồng thời tranh thủ sự hợp tác và viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để tiếp nhận thiết bị công nghệ mới, đưa cán bộ y tế đi đào tạo chuyên sâu để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao của nhân dân.
Qua 3 năm (2001-2003) 100% trạm y tế xã, phường và trung tâm y tế quận, huyện đã được củng cố (cơ sở vật chất đã được đầu tư nâng cấp; trang thiết bị được tăng cường và đội ngũ y, bác sĩ đã được củng cố cả về chất lượng và số lượng). Các bệnh viện tuyến thành phố đã từng bước vươn lên, vừa đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh của nhân dân thành phố, vừa khẳng định vai trò, vị trí của bệnh viện khu vực.
Với sự quan tâm của Thành ủy, Ủy ban Nhân dân thành phố và các ngành, các cấp, những năm qua, ngành Y tế đã phòng ngừa và dập tắt các loại dịch bệnh như: Sốt xuất huyết, SARS, cúm gia cầm... trang bị nhiều máy móc hiện đại để tăng cường hoạt động y tế dự phòng chuyên sâu, tham mưu thực hiện các chương trình mục tiêu y tế quốc gia: Thanh toán bệnh bại liệt ở trẻ em, loại trừ bệnh phong ra khỏi cộng đồng, chương trình phòng chống HIV/AIDS, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho người dân trên địa bàn thành phố và khu vực.
- Đối với phong trào thể dục - thể thao. Thành phố đã phát động phong trào ""Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”, vừa xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho tập luyện và thi đấu, vừa kết hợp chỉnh trang đô thị, xây dựng nhiều các khu vực để rèn luyện thể dục - thể thao, tăng cường sức khỏe, từng bước cải thiện đời sống văn hóa và tinh thần của người dân thành phố.
Đối với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, nỗ lực phấn đấu của các ngành, địa phương... đến nay, toàn thành phố có 274 Câu lạc bộ thể dục - thể thao với 17,2% số lượng người tập thể thao thường xuyên. Qua các ngày lễ, ngày truyền thống từ thành phố đến xã, phường luôn quan tâm tổ chức các phong trào vui - khỏe trong cộng đồng để học tập và lao động đạt hiệu quả. Ngoài ra, thành phố cũng quan tâm đến phong trào thể thao chất lượng cao, từ việc qui hoạch xây mới, nâng cấp cơ sở vật chất, trang bị những thiết bị hiện đại, củng cố tổ chức (chọn tuyển những huấn luyện viên và vận động viên xuất sắc từ phong trào quần chúng) để giáo dục, rèn luyện nhằm thi đấu đạt thành tích cao trong các hội thi ở khu vực và cấp quốc gia. Đặc biệt, đội tuyển bóng đá đã được thăng hạng và đang phấn đấu vượt lên để giành thứ hạng ngày càng cao. Các đội tuyển bóng đá trẻ (từ U11 đến U21) được hình thành và không ngừng phát triển. Các môn thể thao khác cũng có nhiều khởi sắc và đạt được nhiều huy chương cấp quốc gia.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, quá trình triển khai Chương trình xây dựng thành phố “5 không”, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao chất lượng các hoạt động về y tế và thể dục - thể thao trên địa bàn thành phố vẫn còn những hạn chế nhất định.
+ Hộ nghèo của thành phố còn 1,8% tổng số hộ của thành phố, nhưng theo tiêu chí mới của thành phố năm 2004 sẽ tăng lên 15,33% đây là một thách thức mới, đòi hỏi phải tiếp tục có những chủ trương giải pháp mới để thực hiện tốt Chương trình. Trong khi đó, sự kết hợp của các ngành, các cấp trong công tác xóa đói giảm nghèo có nơi còn lúng túng, tư tưởng ỷ lại, nhiều hộ muốn được ở lại trong danh sách của những hộ nghèo, tạo ra sức ỳ trong việc xóa những hộ nghèo cuối cùng trên địa bàn thành phố;
+ Tuy người lang thang xin ăn giảm đáng kể, nhưng đã có sự biến tướng ăn xin trá hình qua bán vé số dạo, bán báo, đánh giày... Riêng đối với người tâm thần đi lang thang cũng đang là thách thức lớn đối với thành phố, nơi có Trung tâm điều dưỡng, chữa trị cho người tâm thần trong khu vực. Có một số trường hợp sau khi đưa về chữa trị ở các địa phương lại tiếp tục để đối tượng đi lang thang, trở lại thành phố. Nhiều gia đình xin người vào Trung tâm điều dưỡng người tâm thần, nhưng vì sức chứa có hạn, chưa kịp nhận thì tự ý để mặc người tâm thần đi lang thang, buộc thành phố phải đưa vào chăm sóc, nuôi dưỡng;
+ Người nghiện ma túy (4 tháng đầu năm 2004 phát hiện mới đưa vào Trung tâm cai nghiện 37 trường hợp) số lượng tăng không cao hơn cùng kỳ năm 2003, nhưng những nguy cơ tiềm ẩn vẫn còn là thách thức cho thành phố. Số người tái nghiện nhiều lần chưa có giải pháp xử lý triệt để nên tỏ ra chây lì, quậy phá mỗi khi đưa vào Trung tâm. Đặc biệt, có hiện tượng con nghiện các tỉnh, thành phố (như Thái Nguyên, Hải Phòng...) tự nguyện vào Đà Nẵng sử dụng ma tuý để được đưa vào Trung tâm cai nghiện. Tình hình này đã tác động tiêu cực đến mục tiêu ""không có người nghiện ma tuý trong cộng đồng” của thành phố, vì vậy cần thiết phải có sự quan tâm đồng bộ của các ngành, các cấp, các địa phương và sự cố gắng nhiều hơn của những đơn vị làm công tác phòng chống ma túy;
+ Vấn đề giải quyết việc làm, thành phố đã có nhiều cố gắng, song lao động ở những vùng di dời, giải toả, chỉnh trang đô thị quản lý chưa chặt chẽ, giải quyết cho lao động chuyển đổi ngành nghề còn nhiều bất cập. Việc quản lý, phát triển các làng nghề truyền thống cũng như xuất khẩu lao động đề giải quyết việc làm có đặt ra nhưng kết quả mang lại chưa cao;
+ Việc đầu tư cơ sở vật chất cho y tế thành phố còn dàn trải, nên hiệu quả phục vụ chưa tưng xứng với sự đầu tư. Đội ngũ cán bộ khoa học chuyên sâu của ngành y tế còn mỏng. Tinh thần trách nhiệm, tuy đã được chấn chỉnh và tiến bộ nhiều nhưng vẫn phải tiếp tục quan tâm giáo dục, nhất là khám chữa bệnh và quản lý dược (cả nhà nước và tư nhân). Các chương trình về xử lý chất thải y tế chưa được giải quyết triệt để, việc đưa công nghệ thông tin vào phục vụ ngành y tế chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra;
+ Đối với phong trào thể dục - thể thao thành phố có nhiều tiến bộ nhưng chưa sâu, chưa toàn diện. Đối với thể thao thành tích cao chưa tương ứng với sự quan tâm mong đợi của nhân dân và nguồn đầu tư của thành phố. Việc thu hút tài năng thể thao thành tích cao chưa đạt yêu cầu, cơ sở vật chất đã được trang bị cần được bảo vệ và sử dụng tốt hơn.
II. PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU THỰC HIỆN ""CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG THÀNH PHỐ ""5 KHÔNG""; XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO, GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG; NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁC HOẠT ĐỘNG Y TẾ, THỂ DỤC - THỂ THAO”.
Phát huy những kết quả đã đạt được và khắc phục những tồn tại trong thời gian qua nhằm góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, phương hướng, mục tiêu “Chương trình xây dựng thành phố "5 không", xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng các hoạt động y tế, thể dục - thể thao "" của thành phố Đà Nẵng từ nay đến năm 2010 là:
1. Tiếp tục thực hiện Chương trình xây dựng thành phố ""5 không"", đặc biệt chú trọng đến các lĩnh vực ""không có người lang thang xin ăn "" dưới mọi hình thức; “không có người nghiện ma túy trong cộng đồng"" và ""không có giết người để cướp của”;
2. Cuối năng 2004 về cơ bản xóa hết hộ nghèo theo chuẩn của Trung ương. Đồng thời triển khai đề án xóa đói, giảm nghèo theo chuẩn mới của thành phố, mỗi năm giảm 3.000 hộ để đến năm 2010 toàn thành phố cơ bản không còn hộ nghèo theo chuẩn mới;
3. Thực hiện có hiệu quả đề án đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động diện di dời giải tỏa, chỉnh trang đô thị; đồng thời chỉ đạo các ngành, các cấp phối hợp giải quyết từ 21.000 đến 23.000 lao động có việc làm giai đoạn 2004-2005 và từ 27.000 đến. 28.000 lao động có việc làm giai đoạn 2006-2010, nhằm góp phần đưa tỉ lệ thất nghiệp từ 5,17% (2003) xuống 4,95% (2005) và xuống dưới 4% (2010), nâng tỉ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn từ 81,2% (2003) lên 82% (2005) và 85% (2010);
Tiếp tục củng cố hệ thống y tế xã, phường. Phấn đấu đến 2005 đạt 40% và 2008 đạt l00% xã, phường đạt chuẩn quốc gia về y tế. Xây dựng mới các Bệnh viện chuyên khoa (nha, phụ sản, ung bướu...). Xây dựng trung tâm phẫu thuật hiện đại lồng ghép với sự hình thành Bệnh viện đa khoa mới (dự kiến hoàn thành 2007). Tăng cường đào tạo cán bộ y tế chuyên sâu, trang bị những máy móc hiện đại nhằm đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh của nhân dân thành phố và khu vực. Chuẩn bị triển khai đề án hình thành trường Đại học Y khoa tại thành phố trong giai đoạn 2006-2010;
4. Đối với thể dục - thể thao: Từ nay đến 2010 xây dựng hoàn chỉnh các công trình đã được qui hoạch và phê duyệt (Sân vận động Chi Lăng, Trung tâm thể thao thành tích cao, Trung tâm đào tạo vận động viên, Khu liên hợp thể thao...) nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xu thế phát triển thành phố.
Phấn đấu đến 2005 đạt 18% dân số và 13,7% số hộ gia đình tập Luyện thể dục - thể thao; 92% số trường giảng dạy các tiết nội khóa về thể dục-thể thao; 75% học sinh phổ thông và 85% SV đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể; 90% CB chiến sĩ tham gia tập luyện thể dục - thề thao thường xuyên (50% có phong trào thể thao mạnh. Đến 2010 đạt 23% dân số và 17% số hộ gia đình tập luyện TDTT; 95% số trường giảng dạy các tiết nội khóa về TDTT; 80% học sinh phổ thông và 95% SV đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể; 100% cán bộ chiến sĩ tham gia tập luyện TDTT thường xuyên (70% có phong trào thể thao mạnh).
Phát triển thể thao thành tích cao từ 200 vận động viên (2003) lên 500 vận động viên (2010), từ 15 môn (2003) lên 20-30 môn (2010). Qua phong trào chọn cử từ 3-10 huấn luyện viên và từ 10-15 vận động viên (2005); từ 10-15 huấn luyện viên và từ 20-30 vận động viên (2010) cho các đội tuyển cấp quốc gia. Phấn đấu dành thứ hạng từ 5 đến 7 tại Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc lần thứ VI (2004) và từ 4 đến 6 tại Hội khỏe Phù đổng toàn quốc lần thứ VII (2008); từ hạng 5-10 tại Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ V (2006) và từ hạng 3 đến 6 tại Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ VII (2010).
III. GIẢI PHÁP
1. Đối với chương trình xây dựng thành phố ""5 không"", xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm cho người lao động
1.1. Chương trình xóa đói giảm nghèo (XĐGN)
+ Củng cố, kiện toàn hệ thống Ban chỉ đạo XĐGN từ thành phố đến cơ sở, phân công phân nhiệm rõ ràng để theo dõi từng nhóm hộ nghèo, khu vực nghèo. Đồng thời nâng cao chất lượng hoạt động của chuyên trách về XĐGN tại xã, phường;
+ Tập trung nguồn lực cho khu vực trọng điểm, nhất là vùng di dời, giải tỏa chỉnh trang đô thị có hộ nghèo. Khuyến khích mạnh việc phát huy nội lực, ý chí tự lực, tự cường vươn lên của hộ nghèo. Đồng thời khắc phục tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào cấp trên của địa phương, cơ sở và của một bộ phận hộ nghèo;
+ Tiếp tục thực hiện Quyết định 139/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và huy động nguồn lực tại cộng đồng để hỗ trợ khám, chữa bệnh cho khoảng 20 ngàn hộ nghèo theo chuẩn mới của thành phố. Đồng thời, hỗ trợ con em hộ nghèo về miễn giảm học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường;
+ Tiếp tục huy động nhiều nguồn lực như: Ngân sách Nhà nước, Qũy vì người nghèo, các tổ chức phi Chính phủ, cộng đồng dân cư, họ tộc và bản thân hộ nghèo để hỗ trợ xóa khoảng 2.000 nhà tạm hộ nghèo trong 2 năm (2004-2005) với tổng kinh phí dự kiến trên 16 tỉ đồng;
+ Tăng cường công tác đào tạo nghề, hướng dẫn cách làm ăn cho hộ nghèo, nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác XĐGN về phương pháp, kỹ năng phân tích, theo dõi giám sát đánh giá hộ nghèo.
1.2. Về đề án “Không có người lang thang xin ăn”
+ Tiếp tục tuyên truyền trong nhân dân về chủ trương xây dựng môi trường thành phố ""xan h- sạch - đẹp” và ""không có người lang thang xin ăn"".
Toàn dân phải nói ""không"" với người lang thang xin ăn. Đồng thời, đưa chỉ tiêu gia đình, tổ dân phố không có người lang thang xin ăn trở thành chỉ tiêu thi đua hàng năm hoặc lồng ghép trong cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa;
+ Điều tra nắm chắc và quản lý chặt chẽ đối tượng bán vé số dạo, đánh giày, bán báo... Đặc biệt, xử lý nghiêm các trường hợp môi giới để thu lợi bất chính của người lang thang xin ăn và trẻ em ngoại tỉnh vào;
+ Tăng cường kiểm tra việc đăng ký tạm trú, tạm vắng, kiên quyết đẩy - đuổi và xử lý những trường hợp tạm trú không có chỗ ở, không có họ hàng thân thích, không có việc làm ổn định tại thành phố;
+ Kiến nghị với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chỉ đạo ngành Lao động, Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trong cả nước, đặc biệt là khu vực miền Trung, phải có trách nhiệm chung và xử lý triệt để về tình hình lang thang xin ăn. Đồng thời có trách nhiệm tiếp nhận, quản lý số người của các địa phương khác đến lang thang xin ăn trên địa bàn thành phố.
1.3. Về đề án ""Không có người nghiện ma túy trong công đồng”
+ Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát tại các sân bay, bến cảng, nhà ga... để triệt phá các đường dây buôn bán ma túy; đồng thời nắm chắc địa bàn, xử lý kịp thời, nghiêm minh các ổ nhóm cung cấp, tiêm chích ma túy Điều tra, xử lý 100% con nghiện đưa vào Trung tâm để chữa bệnh, cai nghiện, dạy nghề và tạo công ăn việc làm cho họ sau cai nghiện. Tổ chức đấu tranh mạnh với các loại tội phạm về ma túy;
+ Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn xã hội trong công tác phòng, chống tệ nạn ma túy. Đưa chỉ tiêu phòng, chống tệ nạn ma túy vào đánh giá hiệu quả công tác của từng cấp uỷ Đảng, từng ngành, từng đoàn thể và địa phương. Chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm của bản thân và gia đình người nghiện trong việc cai nghiện và rèn luyện sau cai nghiện;
+ Tiếp tục đầu tư con người, cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác cai nghiện. Trước mắt nhanh chóng đầu tư kinh phí mở rộng Trung tâm Giáo dục - Dạy nghề 05 - 06 theo phương án đã được duyệt. Kêu gọi các tổ chức kinh tế đầu tư liên doanh, liên kết dạy nghề và tổ chức sản xuất cho số học viên đang cai nghiện tại Trung tâm;
+ Phát động phong trào ""Toàn dân tham gia phát hiện tố giác tội phạm ma túy và người nghiện ma túy"". Có hình thức công khai thưởng tiền cho những người phát hiện, cung cấp thông tin cho cơ quan chức năng về tội phạm ma túy và người nghiện ma túy Chỉ đạo các cơ quan chức năng, cùng các địa phương khẩn trương tiến hành rà soát từng khu dân cư, từng gia đình để kịp thời phát hiện người nghiện đưa đi cai nghiện, đồng thời xác định số đối tượng nguy cơ cao để có biện pháp giáo dục phòng ngừa;
+ Giải quyết đồng bộ các chính sách hỗ trợ giúp người sau cai nghiện. Khuyến khích, kêu gọi các doanh nghiệp, các tổ chức nhân đạo, từ thiện tạo việc làm, hỗ trợ tinh thần, vật chất cho người sau cai nghiện. Có biện pháp quản lý chặt chẽ đối tượng sau cai nghiện, trong đó bao gồm biện pháp bắt buộc cư trú có thời hạn và chịu sự giám sát thường xuyên của các cơ quan chức năng ở địa phương trong thời gian từ 2-3 năm; cương quyết xử lý hình sự đối với người tái nghiện lần thứ 3 trở lên;
+ Tăng cường bộ máy cán bộ làm công tác phòng, chống tệ nạn, xã hội trên địa bàn thành phố. Trước mắt, kiện toàn, bồi dưỡng nâng cao năng lực, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách phòng, chống ma túy, mại dâm xã, phường, đồng thời bố trí cán bộ chuyên trách ở cấp quận, huyện. Bên cạnh đó, cần ban hành cơ chế chính sách hỗ trợ cho người sau cai nghiện và bố trí nguồn kinh phí đáp ứng cho yêu cầu công tác cai nghiện và quản lý sau cai nghiện;
+ Chỉ đạo các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương đề ra mục tiêu, kế hoạch, biện pháp cụ thể để huy động sức mạnh các hệ thống chính trị vào việc thực hiện công tác phòng, chống tệ nạn ma túy, tránh tình trạng chỉ đạo, điều hành chung chung. Thường xuyên kiểm tra đôn đốc, rút kinh nghiệm, kịp thời nhân rộng các mô hình tốt, kiên quyết xử lý những địa phương, đơn vị thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác phòng chống ma túy.
1.4. Về đề án “không có giết người để cướp của”
+ Tiếp tục phát động phong trào quần chúng đẩy mạnh việc thực hiện tốt Nghị quyết 09/CP và chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, không ngừng củng cố các tổ chức quần chúng tham gia bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở, xây dựng thế trận toàn dân tham gia thực hiện công tác giữ gìn trật tự an toàn xã hội một cách bền chắc, toàn diện;
+ Phối hợp các cơ quan thông tin đại chúng để tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức của quần chúng nhân dân về ý thức làm chủ, cảnh giác trước mọi âm mưu, phương thức, thủ đoạn của bọn tội phạm, phát hiện tố giác, ngăn chặn bọn tội phạm, đặc biệt là tội phạm nghiêm trọng, tội phạm giết người để cướp tài sản;
+ Công tác phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm giết người cướp tài sản phải đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, điều hành của chính quyền các cấp. Trọng tâm là tập trung chỉ đạo các biện pháp làm trong sạch địa bàn, tổ chức tốt công tác quản lý, giáo dục các loại đối tượng ngay từ cơ sở, nhất là loại đối tượng hình sự có nhiều tiền án, tiền sự, đối tượng hình sự nguy hiểm, nắm chắc diễn biến tình hình của tội phạm để có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn. Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, đoàn thể xã hội để làm công tác giáo dục việc chấp hành nghiêm pháp luật, tuyên truyền vận động toàn xã hội tham gia công tác phòng, chống tội phạm;
+ Tăng cường các biện pháp phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp vụ, trong đó chủ trương đi vào các đối tượng cụ thể liên quan đến tội phạm giết người cướp tài sản để có biện pháp phòng ngừa, không để các đối tượng có điều kiện gây án;
+ Tăng cường công tác quản lý Nhà nước trên lĩnh vực TTXH. Có biện pháp quản lý đối với số người lao động tự do, số nhân hộ khẩu tạm trú trên địa bàn thành phố; thường xuyên kiểm tra, chấn chỉnh những sơ hở thiếu sót trong việc đăng ký tạm trú, tạm vắng ở từng hộ, tổ dân phố, các nhà trọ, khách sạn, không để các đối tượng từ nơi khác đến ẩn náu gây án;
+ Thực hiện nghiêm túc việc đăng ký, quản lý các loại vũ khí, vật liệu nổ, vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ không để tội phạm sử dụng vào việc gây án giết người cướp tài sản. Thường xuyên tổ chức truy bắt và vận động đối tượng có lệnh truy nã ra đầu thú, đặc biệt là đối tượng truy nã thuộc loại nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm. Kiên quyết không để đối tượng truy nã lẩn trốn tiếp tục hoạt động phạm tội trên địa bàn thành phố;
+ Phối hợp các lực lượng thường xuyên tổ chức tốt công tác tuần tra, kiểm soát về an ninh trật tự ở cơ sở đảm bảo giải quyết nhanh các vụ việc không để tội phạm manh động, gây nguy hiểm cho xã hội, tấn công, truy bắt kịp thời tội phạm. Phối hợp chặt chẽ, thống nhất giữa các ngành nội chính để điều tra, truy tố xử lý nhanh các vụ án, nhất là các vụ án nghiêm trọng, án điểm để giáo dục răn đe tội phạm;
+ Từng bước xây dựng, củng cố các lực lượng mũi nhọn trực tiếp làm công tác phòng ngừa, đấu tranh giỏi về nghiệp vụ, pháp luật, đồng thời chú trọng đầu tư kinh phí, lực lượng, phương tiện cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là tội phạm nguy hiểm, đặc biệt nguy hiểm.
2. Về giải quyết việc làm cho người lao động
+ Để thực hiện giải pháp phát triển kinh tế, tạo ra nhiều việc làm, thành phố tập trung triển khai có hiệu quả luật doanh nghiệp, luật đầu tư nước ngoài, thực hiện đồng bộ các chủ trương, chính sách của Nhà nước, ban hành các chính sách, tạo cơ chế thuận lợi nhằm tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng, thu hút đầu tư vào phát triển kinh tế, tạo ra nhiều việc làm mới, giải quyết cơ bản vấn đề việc làm của địa phương.
+ Phối hợp với các ngành xây dựng và triển khai chương trình, thực hiện tốt chương trình “5 không”, xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm cho người lao động; tổ chức điều tra, khảo sát, nghiên cứu đề xuất các chính sách để hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động thực hiện chính sách di dời giải toả; chuyển đổi ngành nghề cho lao động nông nghiệp và nông dân bị thu hồi đất sản xuất.
+ Phối hợp với các ngành, các doanh nghiệp, địa phương, Ban Quản lý khu công nghiệp khảo sát nhu cầu đào tạo và tuyển dụng, tiếp tục triển khai hỗ trợ đào tạo nghề cho người lao động tại các địa phương, doanh nghiệp... đáp ứng cho nhu cầu của các doanh nghiệp trên địa bàn.
+ Tiếp tục triển khai cho vay vốn từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, duy trì và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay hỗ trợ việc làm, trên cơ sở cải cách các thủ tục và hoàn thiện công tác quản lý, điều hành, chú trọng các dự án làng nghề, dự án trang trại, dự án của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, dự án sử dụng nhiều lao động…khai thác có hiệu quả nguồn vốn cho vay.
+ Đẩy mạnh và chỉnh đốn hoạt động của các Trung tâm Dịch vụ việc làm, nâng cao năng lực đào tạo, tư vấn, giới thiệu việc làm, cung cấp thông tin, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động; tổ chức cung ứng các dịch vụ việc làm cho người sử dụng lao động theo hợp đồng bao gồm: cung ứng lao động, giúp tuyển dụng lao động; tư vấn pháp luật về lao động việc làm, trao đổi thông tin thị trường lao động, hỗ trợ dịch vụ việc làm cho người lao động.
+ Phối hợp với các ngành xây dựng, triển khai chương trình phát triển giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Qui hoạch mạng lưới dạy nghề, nâng cao năng lực của các trung tâm dạy nghề, trường nghề về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, xây dựng chương trình đào tạo cho phù hợp hơn với thực tế yêu cầu của sản xuất; đẩy mạnh xã hội hóa công tác đào tạo nghề, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đào tạo nghề, phối hợp với các doanh nghiệp, cơ sở để đào tạo lại người lao động cho phù hợp với yêu cầu đổi mới công nghệ, sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh hoạt động đào tạo gắn với giải quyết việc làm tại các doanh nghiệp, cơ sở, để phát huy hiệu quả sau đào tạo. Chú trọng hoạt động quản lý Nhà nước về công tác đào tạo nghề, thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về đào tạo nghề.
+ Duy trì các thị trường truyền thống, hạn chế đưa người lao động sang các thị trường có nhiều rủi ro, mở thêm thị trường mới có tiềm năng thu hút lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động, chấn chỉnh những sai sót của các doanh nghiệp, tăng cường trách nhiệm của các doanh nghiệp đối với người lao động, tuyên truyền khuyến khích người lao động tham gia đi xuất khẩu lao động, tạo ra sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, các địa phương, doanh nghiệp, nhà nước đào tạo trong việc triển khai hoạt động xuất khẩu lao động;
+ Tổ chức tốt Hội chợ việc làm để người lao động, người sử dụng lao động, các Trung tâm dịch vụ việc làm, các trường và cơ sở đào tạo trực tiếp gặp gỡ, giao lưu, nắm bắt thông tin, nhu cầu về lao động, việc làm, tuyển dụng, thông qua đó xúc tiến việc làm, thúc đẩy thị trường lao động phát triển.
+ Đẩy mạnh hoạt động thông tin thị trường lao động của các Trung tâm dịch vụ việc làm, từng bước nâng cao chất lượng cung cấp thông tin về thị trường lao động phục vụ cho người lao động, cho yêu cầu của các doanh nghiệp qua các trung tâm dịch vụ việc làm; thu thập thông tin từ các địa phương, các Trung tâm dịch vụ việc làm, các doanh nghiệp, các ngành; triển khai điều tra lao động việc làm, tổng hợp và xử lý thông tin để sử dụng, phục vụ cho yêu cầu của địa phương;
+ Tổ chức thông tin, tuyên truyền về chương trình, tập trung vào các nội dung, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm và các hoạt động xã hội khác;
3. Về nâng cao chất lượng hoạt động y tế
+ Tiếp tục đầu tư xây dụng cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại để ngành y tế đủ sức phục vụ nhân dân thành phố và khu vực miền Trung, Tây nguyên. Đặc biệt, xây dựng các Bệnh viện chuyên khoa và trạm cấp cứu trung chuyển;
+ Kiện toàn và phát triển hệ thống y tế từ thành phố đến cơ sở đảm bảo số lượng và chất lượng. Có chính sách riêng để thu hút thầy thuốc giỏi, chuyên khoa đầu ngành. Từng bước hiện đại hoá kỹ thuật chuẩn đoán, kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại;
+ Giáo dục y đức cho đội ngũ cán bộ ngành y để vừa đảm bảo thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về y tế trên địa bàn thành phố, vừa phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn;
+ Mở rộng việc xã hội hoá trong lĩnh vực y tế, nhất là việc tranh thủ các nguồn tài trợ trong và ngoài nước, khám chữa bệnh cho người nghèo, (hành nghề khám chữa bệnh và dược) tư nhân.
4. Đối với thể dục-thể thao (TDTT)
+ Liên hệ lồng ghép hoạt động của ngành TDTT với các ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội để phát triển TDTT quần chúng. Đồng thời hình thành và nâng cao chất lượng mối quan hệ với các Liên đoàn Thể thao, Hội Thể thao từng môn, từ cấp thành phố đến quận, huyện, xã, phường;
+ Triệt để khai thác hiệu quả sử dụng các công trình, trang thiết bị TDTT hiện có, tạo mọi điều kiện thuận lợi đáp ứng nhu cầu tập luyện và thi đấu của quần chúng nhân dân. Tăng cường và cải tiến hệ thống thi đấu TDTT quần chúng theo hướng các đơn vị tham dự các giải là các CLB cơ sở, khuyến khích khai thác các nguồn kinh phí tài trợ từ các tổ chức, cá nhân nhằm nâng cao tính hấp dẫn, thu hút đông đảo quần chúng tham gia tập luyện và thi đấu. Thí điểm việc quản lý, đào tạo vận động viên trình độ cao tại các Câu lạc bộ tư nhân do nguồn kinh phí tư nhân đóng góp (có sự hỗ trợ của Nhà nước). Quan tâm chăm sóc đến đời sống, thu nhập và việc làm tương lai cho vận động viên thể thao thành tích cao;
+ Tăng cường quản lý và nâng cao chất lượng hoạt động của các Câu lạc bộ thể thao, xây dựng các lớp năng khiếu nghiệp dư, tạo nguồn cung cấp vận động viên. Phối hợp chặt chẽ với ngành Giáo dục - Đào tạo tổ chức tốt giải các môn thể thao học sinh, đồng thời xây dựng các CLB thể thao tại các trường học, tăng cường công tác ngoại khoá TDTT, thông qua đó, hỗ trợ công tác tuyển sinh vận động viên năng khiếu. Đồng thời có chính sách thỏa đáng để thu hút vận động viên đạt thành tích cao hoặc có năng khiếu để phát triển thể thao của thành phố;
+ Đẩy mạnh công tác ứng dụng các thành tựu khoa học trong quá trình huấn luyện đào tạo vận động viên thể thao, chế độ dinh dưỡng, phục hồi và chữa trị chấn thương trong thể thao Tìm kiếm và hợp đồng những chuyên gia, HLV giỏi trong và ngoài nước về huấn luyện các môn thể thao mũi nhọn và có thế mạnh của thành phố. Tùy theo điều kiện và thời điểm cụ thể HLV, VĐV đi tập huấn dài hạn trong và ngoài nước;
+ Đẩy mạnh công tác quy hoạch đào tạo bồi dưỡng HLV, đặc biệt là HLV cấp cao ở một số môn thể thao mũi nhọn, trọng điểm. Cập nhật những thông tin khoa học kỹ thuật mới nhất liên quan đến công tác huấn luyện đào tạo. Trang bị bổ sung thêm kiến thức về ngoại ngữ, tin học cho đội ngũ huấn luyện viên.
Để tổ chức thực hiện tốt các mục tiêu về “Chương trình xây dựng thành phố “5 không”; xóa đói giảm nghèo; giải quyết việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng các hoạt động y tế, thể dục - thể thao” trên địa bàn thành phố, Ủy ban Nhân dân thành phố giao trách nhiệm cho các đơn vị, địa phương như sau:
1. Giao Sở Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm phối hợp với các ngành, địa phương và các đoàn thể tổ chức thực hiện đề án về ""xóa đói giảm nghèo"" theo chuẩn mới đã được Hội đồng Nhân dân thành phố phê chuẩn, tiếp tục duy trì và nâng cao hiệu quả việc thực hiện đề án “không có người lang thang xin ăn”, đặc biệt ngăn chặn có hữu hiệu các hiện tượng ăn xin trá hình. Nghiên cứu đề xuất Ủy ban Nhân dân thành phố ban hành Qui chế cai nghiện tập trung và quản lý sau cai ma túy tại cộng đồng. Vận động và có sự hỗ trợ về cơ chế, chính sách cho các doanh nghiệp tiếp nhận lao động sau cai hoặc đầu tư tổ chức lao động tại chỗ nhằm giải quyết việc làm cho người nghiện ma túy đã qua thời gian cai nghiện, thử thách;
2. Công an thành phố có trách nhiệm chỉ đạo Công an các cấp tập trung thực hiện tốt công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, đặc biệt chỉ đạo các lực lượng nghiệp vụ phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả với tội phạm giết người để cướp của; tội phạm và tệ nạn ma túy xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm;
3. Sở Y tế có trách nhiệm vừa tổ chức xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị hiện đại, vừa đề xuất có chính sách riêng thu hút những thầy thuốc giỏi về phục vụ cho thành phố. Trước mắt tự đào tạo nguồn cán bộ hiện có để đáp ứng yêu cầu đặt ra, nhất là giáo dục về y đức cho đội ngũ Y, Bác sĩ. Vừa chú trọng y tế chuyên sâu, vừa quan tâm nâng cao chất lượng của hoạt động y tế cộng đồng, kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại. Kịp thời tham mưu đề xuất biện pháp dập tắt các bệnh dịch mới phát sinh, tăng cường kiểm tra an toàn thực phẩm và vệ sinh môi trường, đặc biệt quan tâm xử lý triệt để nước và rác thải y tế;
4. Sở Thể dục - Thể thao có trách nhiệm quán triệt triển khai thực hiện tốt Chỉ thị 17/CT-TW ngày 23/10/2002 của BCH Trung ương Đảng ""Về phát triển thể thao đến năm 2010”. Ngành cần có qui hoạch cụ thể về phát triển thể dục - thể thao thành phố đến năm 2010 để trình Ủy ban Nhân dân thành phố thông qua và tổ chức thực hiện. Có biện pháp phối hợp kịp thời với nhà trường (đặc biệt các trường thể dục - thể thao của Trung ương đóng trên địa bàn), các địa phương và đoàn thể để đẩy mạnh phong trào thể dục - thể thao quần chúng. Đồng thời chú trọng xây dựng các môn thể thao mà thành phố có lợi thế để đạt thành tích cao trong các kỳ thi đến. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về thể dục-thể thao, giáo dục ý thức tự lực, tự cường, ý chí vươn lên, tính cạnh tranh lành mạnh trong thể thao của đội ngũ huấn luyện viên và vận động viên;
5. Sở Văn hóa-Thông tin có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan đẩy mạnh công tác tuyên truyền về kết quả và nhiệm vụ của chương trình. Theo dõi chỉ đạo đội 814 hoạt động mạnh và hiệu quả hơn để góp phần phòng chống các sản phẩm hóa phẩm đồi trụy và các tệ nạn xã hội;
6. Sở Tài chính có trách nhiệm giúp Ủy ban Nhân dân thành phố chỉ đạo quản lý, đẩy mạnh các công trình xây dựng cơ bản phục vụ cho việc thực hiện Chương trình. Đồng thời, nghiên cứu cân đối ngân sách để phân bổ cho từng ngành, từng cấp phục vụ các nhiệm vụ có liên quan về tài chính trong chương trình này;
7. Ủy ban Nhân dân các quận, huyện có trách nhiệm xây dựng kế hoạch cụ thể để chỉ đạo các phòng trực thuộc có liên quan, Ủy ban Nhân dân các xã, phường thực hiện tốt chương trình. Đặc biệt chú trọng đến tình hình ""không có người lang thang xin ăn”, “không có người nghiện ma túy trong cộng đồng”, “không có giết người để cướp của” trên địa bàn xã, phường, quận, huyện;
8. Đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các, đoàn thể phối hợp chặt chẽ với các sở, ban, ngành, quận, huyện có liên quan để lồng ghép các chương trình hoạt động, các phong trào cụ thể nhằm thực hiện tốt “Chương trình xây dựng thành phố “5 không”; xóa đói giảm nghèo; giải quyết việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng các hoạt động y tế, thể dục - thể thao”. nhằm góp phần đưa đời sống tinh thần của nhân dân thành phố từng bước đi lên, thúc đẩy kinh tế thành phố phát triển cao và bền vững.
1. Căn cứ vào phương hướng, mục tiêu và những giải pháp công tác lớn cũng như phân công trách nhiệm cụ thể trong chương trình. Ủy ban Nhân dân thành phố các quận, huyện, các sở, ban, ngành, các đơn vị liên quan căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ để chủ động xây dựng kế hoạch, tổ chức triển khai nghiêm túc chương trình của Ủy ban Nhân dân thành phố và chịu trách nhiệm trước Ủy ban Nhân dân thành phố về việc thực hiện Chương trình này ở địa phương, đơn vị mình. Định kỳ, quí, 6 tháng, năm báo cáo kết quả thực hiện về Ủy ban Nhân dân thành phố để theo dõi, chỉ đạo.
2. Thời gian thực hiện: (từ nay đến 2005 và 2006 - 2010):
2.1. Giai đoạn I: Quí IV năm 2004 Ủy ban Nhân dân các quận, huyện, các sở, ban, ngành xây dựng kế hoạch triển khai chương trình và báo cáo kết quả về Ủy ban Nhân dân thành phố (qua Văn phòng UBND thành phố) cuối quí IV năm 2004.
Đầu năm 2005 triển khai các mục tiêu, giải pháp của chương trình một cách cơ bản, cuối năm 2005 tổ chức sơ kết giai đoạn I (2004 - 2005) và triển khai các giải pháp cho những năm tiếp theo nhằm thực hiện có hiệu quả phương hướng, mục tiêu và các giải pháp đã đề ra.
2.2. Giai đoạn II (2006 - 2010): Tiếp tục duy trì củng cố và bổ sung các giải pháp mới để thực hiện tốt các nội dung của chương trình.
Trên đây là chương trình thực hiện ""Chương trình xây dựng thành phổ “5 không""; xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng các hoạt động y tế, thể dục - thể thao"" Ủy ban Nhân dân thành phố giao Văn phòng UBND thành phố chủ trì theo dõi, đôn đốc Ủy ban Nhân dân các quận, huyện, các sở, ban, ngành, các đơn vị liên quan triển khai thực hiện. Trong quá trình thực hiện có gì vướng mắc kịp thời báo cáo Ủy ban Nhân dân thành phố để chỉ đạo./.