'Chúng tôi luôn nỗ lực đóng góp vào sự nghiệp giữ gìn hòa bình và phát triển bền vững của đất nước'

PGS. TS. Hà Hùng Cường, Chủ tịch Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam.
PGS. TS. Hà Hùng Cường, Chủ tịch Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam.
(PLVN) -  Nhân kỷ niệm 20 năm thành lập Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam, Báo PLVN đã có cuộc phỏng vấn PGS. TS. Hà Hùng Cường, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chủ tịch Quỹ về những hoạt động nổi bật của Quỹ thời gian qua.

Thưa ông, được biết Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam được đánh giá như là một tổ chức thành viên kiểu mới của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam. Ông có thể cho biết điều gì tạo nên sự độc đáo này?

- Có thể nói, sự ra đời của Quỹ Hòa Bình và Phát triển Việt Nam cách đây 20 năm như là một sáng tạo của công tác đối ngoại nhân dân, nhằm đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Từ khi thành lập đến nay, Quỹ đã trải qua 4 kỳ Đại hội. Bà Nguyễn Thị Bình là người sáng lập và được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Quỹ trong suốt 3 kỳ Đại hội I, II, III. Đến Đại hội IV năm 2019, bà Nguyễn Thị Bình do tuổi cao, sức yếu nên thôi không làm Chủ tịch Quỹ và được suy tôn làm Chủ tịch danh dự Quỹ và ông Hà Hùng Cường, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp được nhất trí bầu làm Chủ tịch Quỹ.

Trước hết, Quỹ có đầy đủ các đặc điểm đặc trưng của hình thức tổ chức “phi chính phủ” đang phổ biến trên thế giới. Quỹ được tổ chức gọn với khoảng 40 thành viên, tất cả đều tự nguyện tham gia đóng góp phi vụ lợi cho hoạt động của Quỹ. Tên gọi “Quỹ” (tiếng Anh là Foundation) mà không phải là “Hội” để góp phần làm nổi bật đặc tính “tổ chức phi chính phủ” của Quỹ và để không lẫn lộn với các tổ chức xã hội khác. Hình thức tổ chức này tạo điều kiện thuận lợi cho Quỹ trong việc đa dạng hóa quan hệ đối ngoại và tham gia các thiết chế, diễn đàn phi chính phủ khu vực và quốc tế.

Thứ hai, Quỹ cũng là một tổ chức think-tank có nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu về các vấn đề đối ngoại, an ninh và phát triển. Phần lớn thành viên của Quỹ là các nhà hoạt động đối ngoại lâu năm và chuyên gia trên các lĩnh vực, có hiểu biết, năng lực và tâm huyết để tình nguyện đóng góp trí tuệ cho lợi ích quốc gia - dân tộc. Các hoạt động nghiên cứu, tham mưu của Quỹ là đóng góp thuộc kênh 2 - không chính thức - có giá trị tham khảo đối với các cơ quan hoạch định chính sách.

Thứ ba, lĩnh vực hoà bình và phát triển là 2 lĩnh vực chủ đạo có tác động bao trùm đối với tình hình thế giới và lợi ích quốc gia - dân tộc, cho phép Quỹ triển khai hoạt động trong một không gian rất rộng lớn với các quan hệ đối ngoại và loại hình hoạt động rất phong phú, đa dạng, đáp ứng được nhu cầu đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại trong tình hình mới.

Các đặc điểm, ưu thế đó đã được Quỹ tích cực phát huy, triển khai được nhiều hoạt động có hiệu quả và đạt được nhiều thành tích quan trọng trong 2 thập niên qua.

Ông có thể nói rõ hơn về một số thành tựu nổi bật mà Quỹ đã đạt được trong 20 năm hoạt động vừa qua?

- Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích trong đấu tranh, vận động bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc và đóng góp tích cực trong phong trào nhân dân thế giới vì hòa bình, hợp tác, phát triển bền vững và tiến bộ xã hội.

Trong công tác đối ngoại nhân dân, ngay sau khi đi vào hoạt động, Quỹ đã nhanh chóng thiết lập và mở rộng quan hệ đối ngoại. Uy tín quốc tế và các mối quan hệ đối ngoại rộng rãi của lãnh đạo và nhiều thành viên Quỹ, nhất là uy tín của bà Nguyễn Thị Bình, nhà hoạt động chính trị và ngoại giao kiệt xuất có bề dày kinh nghiệm, đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho Quỹ xúc tiến các mối quan hệ đối tác.

Có thể nói Quỹ hiện là tổ chức đối ngoại nhân dân có quan hệ đối ngoại rộng bậc nhất với hàng trăm tổ chức đối tác và tham gia nhiều thiết chế đa phương nhất, trong đó có các thiết chế quan trọng như Cơ chế tư vấn phi chính phủ của Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên Hợp quốc (UN ECOSOC), Uỷ ban Liên chính phủ về nhân quyền ASEAN (AICHR), Diễn đàn Xã hội thế giới, Diễn đàn Nhân dân Á - Âu (AEPF), Diễn đàn Nhân dân ASEAN (APF), Mạng lưới Đoàn kết Nhân dân Nam - Nam, Tổ chức Tiến bộ Quốc tế (PI)…

Một trong những nhóm đối tác chính của Quỹ là các tổ chức cánh tả, tiến bộ ở các nước châu Á, châu Âu, châu Mỹ, Trung Đông và châu Phi. Nhóm đối tác quan trọng khác là các tổ chức “xã hội dân sự” có vị trí, vai trò quan trọng tại các nước và tại các diễn đàn khu vực, quốc tế. Đặc biệt, Quỹ đã thiết lập được quan hệ với các tổ chức think-tank và một số học giả tiến bộ nổi tiếng như Samir Amin, Francois Houtar, Walden Bello, Francisco Nemenzo, Marta Henecker, Michael Lebovitz, Pablo Solon, Michel Brei, Atilio Boron v.v…

Hội thảo quốc tế Hòa bình An ninh tại châu Á và châu Âu: Thách thức và tầm nhìn của người dân. (Nguồn. Quỹ Hoà bình và Phát triển Việt Nam)

Hội thảo quốc tế Hòa bình An ninh tại châu Á và châu Âu: Thách thức và tầm nhìn của người dân.

(Nguồn. Quỹ Hoà bình và Phát triển Việt Nam)

Theo đánh giá của các đối tác thì hoạt động đối ngoại của Quỹ rất phong phú và đa dạng, ông có thể cho biết một số hoạt động đối ngoại mà các ông đánh giá là hiệu quả?

- Trước hết, như chúng ta biết, Quỹ đã hiện diện và hoạt động có hiệu quả tại các diễn đàn đa phương quan trọng nói trên. Tại các diễn đàn này, Quỹ đã tích cực giới thiệu về những thành tựu của công cuộc Đổi mới và con đường phát triển của đất nước nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè và đối tác quốc tế đối với Việt Nam, đấu tranh chống lại các hoạt động và luận điệu xuyên tạc, chống phá Việt Nam của các thế lực phản động, thù địch, đồng thời, đóng góp có trách nhiệm vào sự nghiệp chung vì một khu vực, thế giới hoà bình, phát triển công bằng và bền vững.

Bên cạnh đó, Quỹ cũng đã chủ động tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế, khu vực về các chuyên đề khác nhau trong các lĩnh vực hoà bình và phát triển nhằm nhận diện, làm rõ các thời cơ, thách thức và đề xuất giải pháp đối với các vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, khu vực và thế giới. Đồng thời, Quỹ cũng chú trọng phát triển quan hệ đối tác, triển khai các hoạt động trao đổi, hợp tác song phương nhằm củng cố quan hệ hữu nghị, đoàn kết với nhiều tổ chức nhân dân các nước tại các châu lục.

Trong các hoạt động đối ngoại, Quỹ luôn nhất quán đề cao các giá trị hòa bình, dân chủ, chính nghĩa, công bằng, tiến bộ và văn minh, vì một Việt Nam độc lập, tự chủ, phát triển thịnh vượng, bền vững, có quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên thế giới.

Thông qua các hoạt động này, Quỹ đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhiều tổ chức nhân dân các nước đối với Việt Nam, vận động được nhiều tổ chức lên tiếng, tham gia bảo vệ lợi ích của Việt Nam trên các vấn đề dân chủ, nhân quyền, chủ quyền biển đảo và công lý cho nạn nhân chất độc da cam/dioxin tại Việt Nam. Đồng thời, Quỹ cũng đã huy động được tài trợ của nhiều đối tác để triển khai các hoạt động hỗ trợ người nghèo, nạn nhân chiến tranh, bảo vệ môi trường, thúc đẩy bình đẳng giới v.v…

Thông qua các hoạt động trên, uy tín quốc tế của Quỹ cũng được khẳng định, nâng cao với việc Quỹ được công nhận tư cách Tư vấn của Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên Hợp quốc, của Uỷ ban liên chính phủ về Nhân quyền của ASEAN, được bầu làm thành viên Ban Tổ chức Quốc tế của Diễn đàn Nhân dân Á - Âu, Diễn đàn Nhân dân ASEAN, Nhóm Điều hành Mạng lưới Đoàn kết Nhân dân Nam - Nam và làm Điều phối viên Nhóm Hòa bình - An ninh của AEPF.

Các lĩnh vực khác nghiên cứu, tham mưu… có được Quỹ quan tâm không, thưa ông?

- Công tác nghiên cứu, tham mưu là một trong những thế mạnh được Quỹ tích cực phát huy có hiệu quả cao trong suốt 20 năm qua. Quỹ đã huy động được nhiều chuyên gia trong nước và đặc biệt là các học giả tiến bộ nổi tiếng thế giới tham gia vào các hội nghị, hội thảo và hoạt động nghiên cứu về các vấn đề hòa bình và phát triển của Việt Nam, khu vực và thế giới. Ngay sau khi thành lập trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO, Quỹ đã tập trung nghiên cứu về tiến trình toàn cầu hóa, WTO, đặc biệt là kinh nghiệm của các nước trong lĩnh vực này để từ đó đưa ra các khuyến nghị đối với Việt Nam.

Có thể nói, Quỹ là một trong số không nhiều các tổ chức, cơ quan của Việt Nam có các sản phầm nghiên cứu sâu về chủ nghĩa tự do mới và mặt trái của tiến trình toàn cầu hóa, về những bất cập trong thực tiễn hoạt động đầu tư, thương mại, sở hữu trí tuệ của các tập đoàn xuyên quốc gia, đưa ra các khuyến nghị về bảo vệ độc lập tự chủ, cảnh báo các nguy cơ lệ thuộc, sa vào bẫy nợ, huỷ hoại môi trường và phát triển thô lậu (lumpen development)… trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Quỹ cũng là một trong những tổ chức hiếm hoi của Việt Nam đã sớm cung cấp trước thông tin về dự báo của các học giả quốc tế do Samir Amin đưa ra tại Hà Nội năm 2007 về khả năng và kịch bản diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu năm 2008 - 2009. Và chính Samir Amin năm 2010 cũng đã đưa ra dự báo về việc Anh sẽ rút khỏi Liên minh Châu Âu, điều sau đó đã diễn ra trên thực tế sau cuộc trưng cầu ý dân năm 2016…

Bên cạnh đó, vấn đề phát triển bền vững, biến đổi khí hậu, nông nghiệp, bảo vệ môi trường, bảo trợ xã hội… cũng được Quỹ chú trọng nghiên cứu thông qua việc tổ chức các cuộc tọa đàm, hội thảo nhằm tăng cường trao đổi, chia sẻ thông tin, phân tích, đánh giá và đưa ra các khuyến nghị giải pháp.

Bên cạnh các kết quả như nêu trên, có thể đánh giá công tác thông tin đối ngoại cũng một trong những “điểm sáng” trong hoạt động của Quỹ không, thưa ông?

- Đúng là chúng tôi rất vui mừng với những kết quả trong công tác thông tin đối ngoại của Quỹ. Từ kết quả nghiên cứu, thu thập và trao đổi thông tin, lãnh đạo và các thành viên của Quỹ đã xuất bản nhiều cuốn sách và viết hàng trăm bài báo về các vấn đề quốc tế và trong nước quan trọng như toàn cầu hóa, hội nhập, phát triển nông nghiệp bền vững, biến đổi khí hậu, hậu quả chất độc da cam/dioxin, tình hình Biển Đông, châu Á - Thái Bình Dương, cũng như về tình hình kinh tế - xã hội, giáo dục, xây dựng Đảng…

Quỹ đã tham gia và hỗ trợ bà Nguyễn Thị Bình xuất bản hai cuốn sách. Cuốn “Hồi ký Nguyễn Thị Bình - Gia đình, bạn bè và đất nước” bằng tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp, được bạn bè quốc tế trân trọng, coi là một cuốn lịch sử tóm tắt về Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập cũng như trong tiến trình đổi mới và phát triển. Cuốn “Tấm lòng với đất nước” bằng tiếng Việt, tập hợp hầu hết các bài viết của bà Nguyễn Thị Bình về các vấn đề đối ngoại, giáo dục và kinh tế - xã hội, được bạn đọc rất hoan nghênh. Bà Nguyễn Thị Bình cũng đã tập hợp ý kiến các thành viên, viết một số bài đăng trên Báo Nhân dân và một số tạp chí về những vấn đề xây dựng Đảng, giáo dục, đường lối độc lập tự chủ, về đối ngoại nhân dân được dư luận quan tâm.

Các thế hệ lãnh đạo Quỹ cũng đã biên soạn và phát hành một số sách tham khảo, sách phục vụ cho công tác đối ngoại nhân dân, nhận được sự quan tâm và đánh giá cao của độc giả trong nước và bạn bè quốc tế. Quỹ đã ấn hành cuốn sách “Việt Nam và Biển Đông” bằng tiếng Việt và tiếng Anh, được nhiều đối tác sử dụng rộng rãi. Loạt bài viết “Sự thật về Biển Đông” do Quỹ chủ biên đã tạo tiếng vang lớn trong dư luận trong nước và quốc tế. Từ năm 2004, Quỹ đã xuất bản định kỳ hai tháng một lần Bản tin Hòa bình và Phát triển, với nội dung phong phú. Năm 2008, Quỹ cho ra mắt Trang thông tin điện tử ̣bằng tiếng Anh và năm 2020 đã được nâng cấp toàn diện với giao diện mới gồm 2 phiên bản tiếng Việt và tiếng Anh.

Công tác thông tin đối ngoại của Quỹ đã góp phần làm cho bạn bè quốc tế, dư luận và nhân dân thế giới hiểu rõ hơn về quan điểm, lập trường của Việt Nam trên các vấn đề quốc tế và khu vực, về tình hình phát triển của Việt Nam.

Trân trọng cảm ơn ông và kính chúc Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam tiếp tục gặt hái nhiều thành công, đóng góp vào thành tựu chung của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam!

Đọc thêm

Việt Nam là sứ giả của hòa bình

LHQ đánh giá cao tỷ lệ nữ quân nhân của Việt Nam tham gia vào lực lượng GGHB LHQ. (Ảnh trong bài: Cục GGHB).
(PLVN) - Sau 10 năm kể từ khi cử những sĩ quan đầu tiên làm nhiệm vụ cho đến nay, lực lượng Gìn giữ hòa bình Việt Nam ngày càng phát triển và lớn mạnh, qua đó khẳng định nỗ lực và cam kết của một thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, sẵn sàng đóng góp nhiều hơn vào việc xây dựng nền hòa bình và an ninh toàn cầu.

Quốc hiệu Việt Nam khẳng định vị thế của một nước độc lập, thống nhất

Tháng 7/1976, tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VI đã quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (Ảnh: TL/Nguồn: BTLSQG)
(PLVN) - Trải qua những thăng trầm trong hơn 220 năm, quốc hiệu Việt Nam (1804 - 2024) đã khẳng định vị thế của một đất nước độc lập và thống nhất. Sự ra đời của quốc hiệu Việt Nam dưới triều Nguyễn là dấu mốc lịch sử quan trọng của dân tộc để rồi từ đó hai tiếng Việt Nam trở thành tên gọi thiêng liêng, quen thuộc ăn sâu vào tiềm thức, vào máu thịt của mỗi người dân đất Việt.

Thiêng liêng Lễ Thượng cờ 'Thống nhất non sông' tại đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải

Lễ Thượng cờ diễn ra trong không khí trang nghiêm và xúc động.
(PLVN) - Sáng 30/4, tại Kỳ đài ở khu Di tích Quốc gia Đặc biệt Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải, tỉnh Quảng Trị long trọng tổ chức Lễ Thượng cờ “Thống nhất non sông” nhân dịp Kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2024), 52 năm Ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị (1/5/1972 - 1/5/2024).

Việt Nam lần đầu tiên được bầu làm Chủ tịch tại kỳ họp của một ủy ban thuộc UNCTAD

Đại sứ Mai Phan Dũng chủ trì kỳ họp thứ 14 của Ủy ban Đầu tư, Doanh nghiệp và Phát triển thuộc khuôn khổ UNCTAD (Ảnh: Anh Hiển/TTXVN)
(PLVN) -  Diễn ra từ ngày 29/4 tại thành phố Geneva, kỳ họp thứ 14 của Ủy ban Đầu tư, Doanh nghiệp và Phát triển thuộc khuôn khổ Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), Đại sứ Mai Phan Dũng, Trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam bên cạnh Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới và các tổ chức quốc tế khác tại Geneva đã được bầu làm Chủ tịch kỳ họp.

Giá trị của hòa bình

Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị ngoại giao 32, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Có thể nói, chưa bao giờ vị thế, uy tín và hình ảnh một nước Việt Nam độc lập, tự chủ, phát triển năng động, là bạn bè thuỷ chung, chân thành, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và có trách nhiệm lại nổi bật trên trường quốc tế như hiện nay. (Ảnh: TTXVN).
(PLVN) - Gần 50 năm kể từ đại thắng mùa Xuân 1975 và 70 năm từ ngày Điện Biên Phủ làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, sống giữa hòa bình, độc lập nhắc nhở chúng ta về sự hy sinh, mất mát nhưng đồng thời cũng khơi dậy khát vọng cống hiến, xây dựng đất nước hùng cường, để xứng đáng với bao lớp người đã không tiếc máu xương làm nên Tổ quốc.

Thủ tướng kiểm tra hiện trường, đốc thúc nhiều dự án cao tốc trọng điểm

Dự án đầu tiên được Thủ tướng tới kiểm tra tình hình thi công là dự án Vân Phong - Nha Trang - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Ngày 29/4, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và đoàn công tác đi kiểm tra hiện trường, động viên cán bộ, công nhân đang làm việc trên công trường, đốc thúc một số dự án thành phần thuộc tuyến cao tốc Bắc - Nam phía đông giai đoạn 2021-2025, đi qua địa bàn các tỉnh Khánh Hòa, Bình Định, Phú Yên và cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột.

Đánh giá kỹ đề xuất thu hẹp phạm vi dịch vụ xuất khẩu được hưởng thuế suất 0%

Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Vũ Hải Hà phát biểu tại phiên họp. (Ảnh trong bài: VGP)
(PLVN) - Cho ý kiến về dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới đây, các ý kiến đề nghị đánh giá kỹ tác động việc bỏ áp dụng thuế suất giá trị gia tăng 0% đối với các dịch vụ cung cấp cho khu phi thuế quan và doanh nghiệp chế xuất và việc thu hẹp phạm vi các dịch vụ xuất khẩu được áp dụng thuế suất 0% để tránh làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư kinh doanh.

Giải pháp nào để thu hút, 'giữ chân' nhân tài cho Thủ đô?

Nhiều đại biểu đề xuất các cơ chế, chính sách cụ thể để thu hút, trọng dụng nhân tài. (Ảnh minh họa: Q.Vinh)
(PLVN) - Rất nhiều ý kiến đồng thuận cao với dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi), trong đó có việc bổ sung nội dung riêng Điều 16 trong dự thảo Luật về “Thu hút, trọng dụng người có tài năng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”, mà Luật Thủ đô năm 2012 chưa có. Đồng thời, các ý kiến đã đề xuất nhiều giải pháp thiết thực để thu hút, “giữ chân” nhân lực chất lượng cao cho Thủ đô.

Thủ tướng phát lệnh đưa vào khai thác cao tốc Cam Lâm - Vĩnh Hảo và Diễn Châu - Bãi Vọt

Thủ tướng phát lệnh đưa vào khai thác cao tốc Cam Lâm - Vĩnh Hảo và Diễn Châu - Bãi Vọt
Chiều 28/4, tại tỉnh Ninh Thuận, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành Giao thông vận tải (Ban Chỉ đạo) dự Lễ khánh thành Dự án đường bộ cao tốc Cam Lâm - Vĩnh Hảo và thông xe đưa vào khai thác dự án cao tốc Diễn Châu - Bãi Vọt (đoạn từ Diễn Châu đến Quốc lộ 46B).

Ninh Thuận cần tìm lối đi riêng để trở thành địa chỉ đáng để đầu tư, đáng sống

Ninh Thuận cần tìm lối đi riêng để trở thành địa chỉ đáng để đầu tư, đáng sống
(PLVN) - Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị tỉnh Ninh Thuận cần rút ra các bài học phát triển của chính địa phương cũng như các tỉnh, thành phố và các đô thị trong cả nước, tiếp tục đổi mới sáng tạo, phát huy nội lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, tận dụng tốt thời cơ, tìm ra lối đi riêng để Ninh Thuận trở thành địa chỉ đáng đến, đáng để đầu tư, đáng cống hiến, đáng trải nghiệm, đáng sống...

Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị tướng của lòng nhân

Các chiến sĩ thi đua trong Chiến dịch Điện Biên Phủ vui mừng công kênh Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp tại lễ mừng công ngày 13/5/1954. (Ảnh từ Sách ảnh Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp).
(PLVN) - Ông là vị tướng trẻ tuổi nhất, được lãnh tụ Hồ Chí Minh phong hàm Đại tướng đầu tiên theo cách rất đặc biệt khi mới 37 tuổi. Từ Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 đến đại thắng mùa Xuân năm 1975 mãi mãi được ghi vào sử sách những mốc son chói lọi gắn với tên tuổi Đại tướng Võ Nguyên Giáp…

Chiến dịch Hồ Chí Minh thần tốc trong ký ức một Anh hùng xe tăng

Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng cùng những người lính xe tăng Lữ đoàn 206 QK4. (Ảnh: BLL Lữ đoàn 273).
(PLVN) - Tôi hỏi ông, ngày cuối cùng của chiến tranh với ông thế nào? Ông nói: “Sau khi chiếm được sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu địch, chúng tôi ôm chầm lấy nhau hò reo phấn khởi, nước mắt chảy quanh vì vui sướng. Sau đó, tôi ngồi một mình trên xe tăng nghĩ về đồng đội đã hy sinh, về bố mẹ, anh chị em. Và việc tôi nghĩ nhiều nhất là sau này mình sẽ làm gì”...