Chứng cứ "vụ án TCT vật tư nông nghiệp" chưa đủ buộc tội
Các luật sư bào chữa cùng có ý kiến về việc cần điều tra bổ sung do các chứng cứ buộc tội chưa đủ thuyết phục để kết tội các bị cáo.
Luật sư “công phá” lý lẽ buộc tội…
Từ ngày 28/2 đến ngày 2/3, TAND TP Hà Nội đã mở phiên tòa sơ thẩm xét xử ông Trần Văn Khánh, nguyên Tổng Giám đốc TCty vật tư nông nghiệp (VTNN) và ông Nguyễn Văn Hiếu, Giám đốc Cty Thành Lợi, đều bị truy tố về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Vẫn quan điểm buộc tội như trước đây, đại diện VKSND TP Hà Nội đã công bố bản cáo trạng cáo buộc các bị cáo đã thực hiện hành vi ký khống hợp đồng mua bán phân đạm urê và hợp đồng thuê xe ô tô Mercedes 29N-6066 để trục lợi.
Theo lời buộc tội của VKSNDTC tại cáo trạng, vào tháng 8/2003, TCty VTNN mua 10.000 tấn đạm urê do Trung Quốc sản xuất và 11.000 tấn đạm urê của một doanh nghiệp Vương quốc Anh. Toàn bộ số hàng trên đã bán cho các doanh nghiệp trong nước, trong đó Cty Thành Lợi mua 4.491 tấn. Nhưng để “trục lợi”, ông Khánh đã thông đồng cùng ông Hiếu ký Hợp đồng 17A, với nội dung TCty VTNN bán cho Cty Thành Lợi 11.000 tấn phân đạm với giá hơn 2 triệu 665 nghìn đồng/tấn.
Sau đó, TCty VTNN lại đàm phán và mua lại 6.000 tấn số trong số 11.000 tấn hàng đã ký bán cho Cty Thành Lợi theo Hợp đồng 17B với giá 2.790.000 đồng/tấn, cao hơn giá đã bán. Theo VKSNDTC, thực chất Hợp đồng 17A và 17B là “khống”, được ký vào tháng 11/2003 để che dấu việc mua bán “ảo” 6.000 tấn đạm urê, qua đó giúp ông Khánh chiếm đoạt tiền chênh lệch giá mua, bán hơn 749 triệu đồng.
Hành vi thứ 2 mà các bị cáo bị truy tố là việc thuê xe Mercedes 29N – 6066, được ký kết giữa TCty VTNN với Cty Thành Lợi với giá 48 triệu đồng/tháng. Nhưng VKSNDTC và CQĐT cho rằng, việc thuê xe đó cũng là khống để che dấu việc ông Khánh đã lấy 1,9 tỷ đồng của TCty giao cho ông Hiếu mua xe. Sau đó, TCty thuê lại xe được mua bằng tiền của chính mình.
Để chứng minh cho những cáo buộc trên, đại diện VKSND TP Hà Nội giữ quyền công tố đã công bố lời khai của các bị cáo trong giai đoạn điều tra. Theo đó, các bị cáo đã “nhận tội” là ký khống hợp đồng mua bán phân đạm và hợp đồng thuê xe. Ngoài ra, một số nhân chứng cũng khai như vậy nên đủ cơ sở buộc tội các bị cáo.
Nhưng các luật sư lại không đồng tình với lý buộc tội của VKS. Theo 5 luật sư bào chữa cho 2 bị cáo, trong hồ sơ vụ án có 2 nguồn chứng cứ là lời khai của bị cáo, nhân chứng và các tài liệu, chứng từ liên quan đến việc mua bán phân đạm, mua bán và thuê xe ô tô. Trong đó, lời khai của các bị cáo khi nhận tội, khi không nhận tội; đặc biệt là lời khai của bị cáo và nhân chứng mâu thuẫn với tài liệu, chứng cứ nên chưa đủ giá trị pháp lý để buộc tội các bị cáo.
Tiếp tục điều tra bổ sung?
Theo Luật sư Đào Hữu Đăng, người bào chữa cho bị cáo Khánh và Luật sư Cao Thanh Tuyên, bào chữa cho bị cáo Hiếu thì Hợp đồng 17A và 17B không phải là “khống” mà là thật. Vì trước khi ký hợp đồng, hai bên đã trao đổi về việc mua bán phân đạm, thể hiện tại Công văn 39B của Cty Thành Lợi, đề nghị TCty nhập khẩu đạm theo hình thức nhập khẩu ủy thác. Nhưng TCty đã chuyển sang hình thức “nhập về rồi bán”.
Mặc dù VKS, CQĐT không thừa nhận Công văn 39B liên quan đến Hợp đồng 17A nhưng tại phiên tòa, các luật sư đã làm rõ sự liên quan trực tiếp giữa các văn bản trên. Vì sau Công văn 39B, chỉ có giao dịch duy nhất được thực hiện là việc mua bán theo Hợp đồng 17A. Hơn nữa, việc Cty Thành Lợi đề nghị “nhập khẩu ủy thác” nhưng TCty lại “nhập khẩu để bán” là chuyện bình thường trong kinh doanh và không trái pháp luật. Vì thế, việc ký Hợp đồng 17A sau khi nhận được đề nghị (theo Công văn 39B) là phù hợp với thực tế, không phải là giả.
Về việc “bán đi rồi mua lại” 6.000 tấn đạm urê (theo Hợp đồng 17B), tại phiên tòa cũng được các luật sư đề cập đến. Theo Luật sư Phạm Hồng Hải, đây không phải là việc làm trái pháp luật và ngược đời mà đây là việc làm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của TCty VTNN vì ngoài vai trò là doanh nghiệp kinh doanh, TCty còn thực hiện nhiệm vụ điều tiết thị trường phân bón nên việc mua lại hàng đã bán để bán cho doanh nghiệp có nhu cầu chính là “điều tiết” thị trường phân bón.
Đặc biệt, Luật sư Hải cho rằng, số phân bón 6.000 tấn mà TCty mua lại của Cty Thành Lợi chắc chắn phải xuất bán cho các doanh nghiệp khác, không để trong kho. Vậy số phân đạm trên đã bán cho doanh nghiệp nào, thu lợi nhuận là bao nhiêu (?), chưa được CQĐT làm rõ. Nếu làm rõ được nội dung này thì sẽ không có vụ án này và các bị cáo không có tội như cáo buộc.
Các luật sư cũng chỉ ra một “tá” bất hợp lý trong cáo buộc của VKS về việc ông Khánh lấy tiền của TCty để đưa cho ông Hiếu mua xe. Theo cáo buộc của VKS tại phiên tòa thì ông Khánh, ông Hiếu, bà Hợp đã khai rằng, ông Khánh là người đàm phán mua xe và trả tiền rồi lấy tiền của TCty đưa cho ông Hiếu trả cho bà Hợp. Khi Thanh tra Bộ NN&PTNT thanh tra TCty thì ông Khánh đã lấy tiền đưa cho ông Hiếu trả lại Cty.
Nhưng tại phiên tòa, các luật sư đã cung cấp chứng cứ quan trọng là hệ thống sổ sách kế toán của Cty Thành Lợi theo dõi việc mua và sử dụng xe 29N-6066. Theo các tài liệu này, Cty Thành Lợi đã mua xe, đưa vào danh mục tài sản cố định của Cty, theo dõi việc cho thuê xe và hạch toán đầy đủ việc kinh doanh xe này. Vì thế, không thể kết luận xe đó là ông Hiếu dùng tiền của TCty VTNN để mua.
Luật sư Hải cho rằng, các tài liệu, chứng cứ bằng văn bản hợp pháp đã thể hiện xe 29N-6066 do Cty Thành Lợi mua (bằng hợp đồng có công chứng) và được Cty quản lý theo pháp luật (thông qua hệ thống sổ sách kế toán) thì không thể kết luận ông Khánh sử dụng tiền của TCty mua xe cho mình như cáo trạng.
Hơn nữa, các chứng cứ quan trọng, có giá trị pháp lý bằng văn bản đã không được VKS sử dụng mà những lời khai mâu thuẫn của các bị cáo lại được sử dụng để buộc tội là không thể chấp nhận được. Một loạt các mâu thuẫn trong chứng cứ và lý lẽ buộc tội của VKS cần phải được làm sáng tỏ. Theo các luật sư, Tòa cần trả hồ sơ để tiếp tục điều tra, làm rõ các vấn đề trên.
Những vấn đề mà các luật sư nêu ra đã cho thấy chứng cứ và lý lẽ của bên buộc tội còn “yếu”. Nhưng liệu Tòa án có trả hồ sơ để điều tra bổ sung? Câu trả lời sẽ có vào ngày tuyên án, 8/3/2011.
Bình Minh
