Chưa thể kết tội sau 4 năm khởi tố?

12 bị cáo trong vụ án tham nhũng tại xã Nam Sơn, TP Bắc Ninh đã được chuyển từ tội “Tham ô tài sản” sang một tội khác nhẹ hơn. Hiện còn 2 bị cáo đang bị truy tố về tội “Tham ô tài sản” vẫn đang kêu oan về tội danh này.

Vụ án tham nhũng tại xã Nam Sơn, TP.Bắc Ninh (trước đây là xã Lam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) được khởi tố vào năm 2006 và từng được xét xử sơ thẩm vào tháng 8/2008. Nhưng HĐXX phúc thẩm thấy rằng, việc định tội danh đối với các bị cáo không chính xác nên đã hủy án sơ thẩm. Từ đây, 12 bị cáo đã được chuyển từ tội “Tham ô tài sản” sang một tội khác nhẹ hơn. Hiện còn 2 bị cáo đang bị truy tố về tội “Tham ô tài sản” vẫn đang kêu oan về tội danh này.

Nhà nước không mất tiền - không có “Tham ô”

Theo bản án sơ thẩm mà TAND tỉnh Bắc Ninh tuyên năm 2008, bị cáo Đỗ Văn Vượng - nguyên Chủ tịch UBND xã Nam Sơn - cùng 13 bị cáo khác nguyên là cán bộ xã, trưởng thôn - đã bị kết án về tội “Tham ô tài sản” (riêng bị cáo Vượng còn bị kết tội “Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”).

rytfuygjk

Đường bê tông tại xã Nam Sơn - một công trình hình thành từ tiền thôn bán đất.

Cáo trạng thể hiện: Vượng đã họp cùng với các trưởng thôn, bí thư chi bộ về việc thực hiện chủ trương cho các thôn bán đất, lấy tiền xây dựng cơ sở hạ tầng. Đến tháng 6/2004, 9 thôn của Nam Sơn đã bán hơn 182.000m2 đất nông nghiệp, thu hơn 18,2 tỷ đồng và nộp về xã gần 10 tỷ đồng. Số tiền này bị thu, chi tùy tiện (không đúng luật ngân sách), gây thất thoát và là cơ hội để các bị cáo chiếm đoạt.

Sau khi đối trừ giữa số thu và số chi, Cơ quan điều tra (CQĐT) cho rằng, bị cáo Vượng và Đàm Văn Chuyển (nguyên Kế toán của xã) không giải trình được việc chi số tiền hơn 910 triệu đồng nên bị quy là “Tham ô tài sản”.

Về phía các trưởng thôn, tuy nhận tiền trích lại (do bán đất) từ xã nhưng lại không nhập quỹ mà để một phần ở ngoài sổ sách để chiếm đoạt, chi tiêu riêng nên cũng bị cho là tham ô.

Như vậy, khoản tiền mà các bị cáo đã “tham ô” trong vụ án này đều là tiền do đã bán đất trái phép. HĐXX phúc thẩm cho rằng việc mua bán này là giao dịch dân sự vô hiệu nên số tiền thu được từ bán đất không thể coi là tiền thuộc sở hữu Nhà nước. Về nguyên tắc, nếu chính quyền không chấp nhận hợp thức hóa diện tích đất đã mua bán trái phép thì những người mua đất là người bị mất tiền chứ không phải Nhà nước.

Từ những phân tích trên trong bản án phúc thẩm nên khi điều tra lại, CQĐT đã chuyển tội danh của 12 bị cáo từ “Tham ô” sang “Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản”.  Riêng Vượng và Chuyền, tuy vẫn bị truy tố ở tội “Tham ô” nhưng số tiền tham ô đã giảm còn hơn 49 triệu đồng. Đây là phần tiền trong tổng số 211 triệu đồng mà bốn hộ dân được đền bù do bị thu hồi đất, bị Vượng và Chuyển giữ lại chi tiêu và không giải trình được.

Tuy nhiên, có thể thấy rằng, 49 triệu đồng này cũng không phải là tài sản thuộc sở hữu Nhà nước vì nó là số tiền trong phương án bồi thường (đã phê duyệt) của bốn hộ dân. Chưa có văn bản nào bảo rằng việc bồi thường trên là sai nên trên nguyên tắc thì 49 triệu đồng này vẫn là của bốn hộ dân. Nếu quy kết các bị cáo “tham ô” số tiền này cũng rất khiên cưỡng.

Cứ không giải trình được là... chiếm đoạt?

Ngoài việc bị quy kết chiếm đoạt hơn 49 triệu đồng như trên thì trong vụ án này, Vượng và Chuyển còn bị coi là đã chiếm đoạt hơn 847 triệu đồng vì đã không giải trình được lý do chi số tiền trên. Tuy nhiên, cách tính toán để ra số tiền trên từng được HĐXX lưu ý rằng, “hệ thống sổ sách kế toán tài chính của xã bị sửa chữa, các chứng từ kế toán không trung thực.

Vậy, căn cứ vào đó để kết luận số tiền tồn quỹ rồi từ đó suy ra số tiền bị thất thoát và quy trách nhiệm với các bị cáo về hành vi chiếm đoạt cả số tiền hơn 910 triệu là chưa chắc chắn”.

Cũng cần nói thêm rằng, Vượng và Chuyền đã từng giải trình về số tiền bị quy là chiếm đoạt bằng 12 phiếu mà xã chi tiền cho một số đơn vị thi công nhưng bị CQĐT phản bác vì cho rằng, đó là những phiếu chi khống. Phải thừa nhận rằng, khi Vượng và Chuyền lập những phiếu chi trên thì đều không có việc chi tiền thật tại thời điểm đó.

Nhưng việc lập này lại theo yêu cầu của đoàn thanh tra huyện Quế Võ chứ không phải để nhằm mục đích các bị cáo chiếm đoạt tiền. HĐXX phúc thẩm thấy rằng, cần phải điều tra lại về chứng cứ này. Rất tiếc, trong quá trình điều tra lại, CQĐT đã không làm rõ vấn đề này vì có nhân chứng đã khai rằng, số tiền trong phiếu chi tương ứng với số tiền tạm ứng trước đó.

Tức là viết phiếu chi để hợp thức hoá số tiền đã chi chứ không phải chi khống. Và việc số tiền trong các phiếu chi đều không làm vượt quá dự toán, quyết toán của các công trình, không có hạng mục nào chi hai lần hoặc không làm mà vẫn chi tiền cả.

Liên quan đến các khoản chi “không giải trình được” như trên, mới đây, HĐXX (lần 2) - TAND tỉnh Bắc Ninh cũng đã quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì tại phiên tòa, có bị cáo đã xuất trình một chứng từ nộp tiền để chứng minh rằng, mình không chiếm đoạt tài sản. Có thể bị cáo khác đã kém may mắn hơn vì đã không tìm được chứng từ để giải trình cho việc chi tiền của mình?

Khoa Lâm