“Tôi vẫn nhớ như in ngày về “ra mắt” nhà nội lần đầu tiên sau 42 năm lấy chồng. Tôi xúc động, nghẹn ngào và như vỡ òa hạnh phúc trong vòng tay người thân gia đình chồng. Ai cũng khóc, cũng thương, nhất là hai người chị gái của chồng tôi. Họ cứ ngỡ em họ lấy vợ tận bên Lào nên không biết đâu mà tìm. Ngày gặp nhau, họ cứ ôm chầm lấy tôi mà khóc rưng rức…”.
“Họ hàng làng xóm qua chia vui đông lắm. Vậy mà trước đó, tôi vẫn còn hồi hộp lo sợ sau từng ấy năm lấy chồng, không may bị từ chối nhận làm con dâu thì nghĩ cũng tủi thân và ê chề lắm”, bà Vui nghẹn giọng kể lại.
Cỗ cưới cũng là tiệc chia tay
Sau khi nhận được giấy báo tử của chồng từ tiền tuyến gửi về, bà chưa một lần nghĩ đến việc sẽ đi bước nữa mà lặng lẽ sống cuộc sống không danh phận. Cho đến khi người đồng đội của chồng bà cất công lần mò từng chút thông tin nhỏ nhặt tìm đến nơi bà sinh sống, để rồi giúp đỡ bà đoàn tụ với gia đình chồng.
Khi chúng tôi đến, bà Vui đang chăm sóc và vui đùa cùng các cháu nhỏ. Nhìn gương mặt bà hồng hào, phúc hậu, bà trẻ hơn nhiều so với tuổi vốn có của mình. Bà vui vẻ chia sẻ với phóng viên:
“Tôi già rồi, ngồi không nó buồn bực chân tay lắm. Vậy nên tôi qua nhà trông đứa nhỏ cho vợ chồng các cháu đi làm. Những ngày tuần rằm, mùng 1, lễ, tết tôi thích đi chùa. Tôi thích nghe những tiếng mõ tụng kinh và những lời răn dạy của Phật. Bởi lẽ tôi tìm được sự yên bình trong từng câu kinh sau những biến cố lớn của cuộc đời”.
Bà Vui Nghẹn ngào khi kể lại cuộc đoàn tụ của mình ngày về thăm gia đình chồng. |
Khi chúng tôi gợi về chuyện cũ, bà cười nhưng nụ cười pha lẫn chút gì đó chua xót và đau đớn. Tự nhiên chúng tôi thấy mình tàn nhẫn quá, gợi lại quá khứ của người vợ liệt sĩ đã phải gánh chịu quá nhiều nỗi đau. Nhưng rồi ký ức về câu chuyện tình của người con gái gốc Hà Tây cũ và chàng trai đất lúa Thái Bình cứ thế hiện lên qua những lời kể chầm chậm của bà.
Qua sự hồi tưởng của bà Vui, chúng tôi cảm nhận được cuộc tình thời chiến của bà tuy ngắn ngủi nhưng lại mãnh liệt và sâu sắc hơn bao giờ hết. Câu chuyện cũng khiến cho người nghe liên tưởng đến bài thơ “Màu tím hoa sim” của nhà thơ Hữu Loan, trong đó có chi tiết cũng tựa như nỗi niềm của vợ chồng bà Vui khi họ cưới nhau: “Cưới nhau xong là đi”.
Bà Vui kể lại: Thời thanh niên, tôi làm việc tại Nông trường Trần Phú đóng tại huyện Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái từ năm 1966. Ở đó tôi quen chồng tôi là ông Lê Văn Tửu. Sau nhiều năm qua lại tìm hiểu, năm 1968 chúng tôi quyết định đi đến hôn nhân”.
Ngay ngày đầu gặp mặt, chàng trai quê lúa đã “đốn tim” bà Vui. Theo lời kể của bà Vui thì ông Tửu là người điển trai, hóm hỉnh và rất có năng khiếu văn nghệ. Không những vậy ông còn là người sống tình cảm, tất cả những đức tính tốt đẹp đó đã khiến bà Vui có thiện cảm và quyết trao trọn tình yêu của mình với ông đến cuối đời kể cả khi ông đã hi sinh.
Không chỉ có vậy, bà Vui còn tâm sự: “Điều khiến tôi yêu ông ấy hơn là vì tôi cảm thương với hoàn cảnh gia đình ông. Nhà nghèo khó, bố mẹ đều mất sớm từ nhỏ, chị em ông ấy rau cháo nuôi nhau.Tuy nhiên, ông ấy lại là người giỏi giang và có ý chí, khi chúng tôi quen nhau, ông ấy đang là cán bộ quản lý đội chế biến chè của nông trường”.
Nhưng chưa được hưởng trọn vẹn hạnh phúc, ngày vợ chồng bà cưới cũng là ngày ông có giấy báo gọi nhập ngũ, ba hôm sau lên đường. Bà Vui kể, ngay sau đêm động phòng, Trung đội trưởng của đơn vị là ông Lê Ngọc Khánh (Đại đội 3, Tiểu đoàn 11 trực thuộc Sư đoàn 316 - Quân khu Tây Bắc) người phụ trách nhận quân có đến gặp hai vợ chồng.
Ông Khánh cho phép chồng bà hoãn đợt nhập ngũ này để đi đợt sau vì áy náy khi thấy hai vợ chồng bà vừa mới làm đám cưới. Thế nhưng, ông Tửu dù thấy có lỗi với vợ, nhưng vẫn cương quyết “vui duyên mới không quên nhiệm vụ” và khẳng định mình sẽ nhập ngũ đợt này như giấy gọi. Khi đó, ông Khánh có hỏi ý kiến tôi, nhưng tôi nói: “Anh Tửu quyết thì tôi cũng quyết”, bà Vui chia sẻ.
Buổi chiều ngày hôm ấy, ông Tửu đến đơn vị nhận quân trang rồi mặc quần áo bộ đội, mang ba lô đạp xe về nông trường với vợ. Theo như lời hẹn, đến khi đơn vị hành quân qua nông trường thì ông Tửu tạm biệt người vợ mới cưới, gia nhập đơn vị hành quân ra chiến trường.
Những năm chiến tranh khốc liệt ấy, biết bao người ra chiến trường có mấy ai trở về lành lặn. Dẫu biết vậy, nhưng để yên lòng người bạn đời trước khi lên đường tham gia chiến đấu, hoàn thành nghĩa vụ với Tổ quốc, bà Vui nuốt nước mắt trong ngày đưa tiễn ông Tửu lên đường.
Sang Lào, ông Tửu là điệp báo viên vô tuyến điện cùng Trung đội trưởng Lê Ngọc Khánh. Đến đầu năm 1970, đơn vị của ông Tửu di chuyển xuống mặt trận Trung Lào thuộc tỉnh Xiêng Khoảng.
Vừa trò chuyện với phóng viên, bà Vui vừa giữ chặt tấm di ảnh đen trắng nhỏ chừng bàn tay, tấm ảnh còn lại duy nhất của ông Tửu và nghẹn ngào nói: Từ khi ông ấy nhập ngũ, chúng tôi còn gặp lại nhau được vài lần khi đơn vị đóng quân ở Mộc Châu, rồi từ đó chỉ trao đổi qua thư từ, mà thư từ ngày đó cũng khó khăn lắm, chứ đâu có được như bây giờ. Mà kể cũng tài, tuy chỉ học hết lớp 7 nhưng ông ấy lại rất hay chữ.
Bà Vui kể lại: “Mặc dù đi làm nhiệm vụ, nhưng cứ khi nào rảnh ông ấy lại dành thời gian ngồi biên thư về cho tôi. Ngày đó, mọi người trong nông trường chè còn phát ghen với tôi vì suốt ngày nhận được thư của chồng. Bởi tháng nào ít nhất ông ấy cũng gửi cho tôi 3 bức thư”.
Những bức thư ông Tửu gửi về hỏi thăm sức khỏe vợ, rồi hẹn ngày về sẽ đưa vợ về ra mắt gia đình ông… “Lá thư cuối cùng tôi nhận được vào đầu năm 1970, cách ngày ông ấy hi sinh khoảng 2 tháng... Không hiểu sao trong thư ông chỉ viết vài dòng, trong đó có câu: “Về như không, thà rằng không về”.
“Khi đó tôi đã giận ông ấy, bởi những lời lẽ trong câu thơ đó khiến tôi rất buồn. Nhưng rồi tôi chỉ nghĩ ông ấy vốn tính hài hước, nên viết câu thơ bông đùa tôi. Ai ngờ… những câu thơ đó lại là sự thật đau lòng, đó cũng là bức thư cuối cùng tôi nhận được”.
Theo như những gì ông Khánh, người trực tiếp tham gia chiến đấu cùng chồng bà Vui kể lại cho gia đình sau này, thì năm 1970, bộ đội ta ở Xẩm Thoong bị thương nặng quá nhiều, đơn vị của ông Tửu mất hai ngày băng rừng, vượt suối mới đưa được thương binh nặng ra đến cánh đồng Mường Pốt.
Khi ra đến đó, ông Tửu và một người đồng đội vừa gác võng cáng một thương binh lên hai cây đối diện nhau để tranh thủ ngồi nghỉ thì bất ngờ máy bay địch lao tới ném bom chớp nhoáng, ông Tửu cùng nhiều đồng đội đang nghỉ ngơi đã hi sinh trong trận bom đó.
Ngôi nhà nơi bà Vui đang sống và thờ chồng. |
Một đời thờ chồng không danh phận
Sau khi nhận được giấy báo tử của đơn vị ông Tửu gửi về, bà Vui khóc ròng suốt nhiều ngày sau đó. Lấy nhau chỉ vài ngày, thậm chí bà còn chưa kịp một lần được về thăm nhà chồng thì đã ly biệt. Lau giọt nước mắt, bà Vui kể: “Trong thời gian tìm hiểu nhau, ông ấy cũng đã về nhà tôi để xin phép bố mẹ, còn tôi thì chưa cả kịp gặp người nhà bên nội”.
Ít lâu sau, bà Vui xin nghỉ việc rồi quay về quê nhà với mẹ ở Thanh Oai bây giờ, sống cuộc đời khép kín còm cõi thờ chồng. Cũng từ khi đó, tuổi xuân cũng như hạnh phúc một đời người phụ nữ ấy coi như đã khép lại.
Cuộc sống ngày ấy đầy những khó khăn, về quê nhà, bà Vui nhận công việc trông trẻ cho hợp tác xã rồi kết hợp làm thêm công việc đồng áng. Cơm áo gạo tiền, rồi cuộc sống đẩy đưa khiến cho điều mong mỏi một lần tìm về quê chồng mãi chưa thể thực hiện.
Theo lời bà Vui kể, bà chỉ biết nhà chồng ở huyện Đông Quan, tỉnh Thái Bình. Sau này, bà có nhờ người con nuôi và mấy đứa cháu tìm hộ nhưng tìm không ra. Nhưng rồi, khi nghĩ đến việc ông Tửu chưa từng đưa bà về nhà giới thiệu với gia đình, bà Vui lo sợ khi mình giới thiệu là dâu chắc không ai tin.
Thế nên nhiều năm sau đó, bà sống lặng lẽ trong căn nhà nhỏ để thờ cúng chồng. Nỗi ám ảnh về việc chưa được thắp hương lên bàn thờ tổ nhà nội, chưa được nhận làm dâu kéo dài cho đến năm 2010, cũng là 40 năm sau khi chồng mất.
May mắn sao đến năm 2010, cựu binh Lê Ngọc Khánh, người Trung đoàn trưởng năm nào cùng đoàn quy tập tỉnh Nghệ An sang Lào tìm mộ liệt sĩ Tửu và các anh em khác trong đơn vị.
Ông Khánh bảo chính ông là người tuyển ông Tửu vào lính, chiến đấu cùng ông rồi cũng chính tay ông chôn cất ông ở nghĩa trang Mường Pốt. Biết mộ đồng đội mà không giúp đoàn quy tập đi tìm mộ thì sống không yên.
Tại Mường Pốt, người ta thông báo cho ông Khánh biết mộ liệt sĩ Tửu đã được đưa về nghĩa trang quốc tế Việt - Lào ở Nghệ An năm 2006. Ông Khánh đã tìm thấy 14 ngôi mộ của đồng đội mình hi sinh trong lần ném bom hồi ấy, trong đó có mộ ông Tửu.
Rồi ông lần tìm đến Sở LĐ-TB&XH Yên Bái, Cục Người có công (Bộ LĐ-TB&XH) tìm danh sách liệt sĩ thấy tên anh Lê Tiến Tửu kèm theo nội dung: “Khi cần báo tin cho vợ là Đào Thị Vui, ở Thanh Oai, Hà Tây”. Vậy là ông Khánh lặn lội về Hà Nội để tìm kiếm thông tin về bà Vui. Sau khi nhờ chính quyền địa phương giúp đỡ, ông cũng đến được nhà bà ở Cao Viên.
Khi đó, bà Vui vẫn chưa được hưởng chính sách vợ liệt sĩ do giấy tờ của chồng đã bị mối mọt ăn hỏng trong quãng thời gian đầy gian khó. Ông Khánh cũng đã giúp bà Vui tìm về đơn vị cũ để xin xác nhận của đơn vị, của những người trực tiếp tham dự lễ cưới ngày hôm đó, giúp chứng minh được rằng bà Đào Thị Vui là vợ của liệt sĩ Tửu. Nhờ những giấy tờ đó, từ năm 2010, chính quyền địa phương đã có những hỗ trợ chính sách cho bà Vui.
Nhưng chi tiết cảm động nhất trong câu chuyện của người phụ nữ có cuộc đời không vui như tên gọi này là ngày bà về quê chồng, được chính thức nhận làm dâu. Tháng 7/2010, ông Khánh đã dẫn bà Vui đến UBND xã Đông Lĩnh, Thái Bình.
Hôm ấy có cả Bí thư, Chủ tịch xã, ông tự giới thiệu: “Tôi là Lê Ngọc Khánh, nguyên cán bộ tuyển quân đồng chí Lê Tiến Tửu và cùng đồng chí ấy sang Lào chiến đấu. Đồng chí Tửu hi sinh năm 1970, mộ đã quy tập về nước. Đây là bà Đào Thị Vui, vợ đồng chí Tửu. Giờ tôi đưa con dâu về quê hương liệt sĩ để họ hàng nhận dâu sau 42 năm kể từ khi cưới”.Nghe vậy, mọi người rất vui mừng bởi “Từ trước tới giờ, gia đình và chính quyền địa phương không hề biết liệt sĩ Tửu có vợ”.
Tại nhà bà Lê Thị Xuân (86 tuổi, chị ruột ông Tửu) khi đại diện UBND xã giới thiệu xong, cựu binh Khánh đưa đầy đủ giấy tờ photo từ hồ sơ liệt sĩ của liệt sĩ Tửu báo cáo với gia đình liệt sĩ Tửu. Bà Xuân giục con gọi điện báo tin gấp cho họ hàng.
Ảnh liệt sĩ Lê Văn Tửu. |
Trong cảnh đoàn viên, bà Xuân nhìn em dâu nghẹn ngào: “Mất cậu Tửu rồi thì còn có em dâu. Tôi cứ tưởng em mình đi chiến đấu rồi lấy vợ bên Lào, nên chúng tôi không biết đâu mà tìm em dâu. Mừng quá, sao bây giờ mợ mới về…”.
Rồi hai chị em cứ ôm nhau mà khóc. Hôm ấy, bên nhà nội tổ chức bữa cơm gia đình đạm bạc, nhưng có con cháu tụ tập quây quần đầm ấm và tình cảm, hàng xóm láng giềng kéo tới chúc mừng, chưa bao giờ bà Vui thấy mình được ăn một bữa cơm ngon và xúc động đến vậy.
Cũng theo lời bà Vui kể, từ ngày chính thức được nhận làm con dâu trong gia đình nhà chồng, bà cũng thay người chồng đã mất làm trọn chữ hiếu với bố mẹ đã mất. “Chồng mất, tôi thay ông ấy hương khói cho bố mẹ. Dạo này tuổi cao, nhưng năm nào tôi cũng dành thời gian về quê chồng tảo mộ ông bà, thăm chị gái ông và mọi người bên nhà nội. Năm nào tôi ốm, thì sẽ nhờ con cháu tôi đi thay cho tròn đạo nghĩa”.
Cũng bởi bà Vui ăn ở nghĩa tình, nên mọi người bên nội ai cũng thương quý. “Quả thật từ ngày về thăm được nhà chồng, tôi thấy gánh nặng trong lòng như được giải tỏa, tôi thấy mình đã làm được điều mà chồng tôi luôn mong mỏi khi ông ấy còn sống”.
Kể tới đây, bà Vui nghẹn giọng: “Bố mẹ đặt tên tôi là Vui mà sao phận đời tôi thì ngược lại. Nói thật, chứ ngay từ ngày còn làm trên nông trường chè, biết tin chồng tôi mất vài năm cũng có người con trai ngỏ lời cầu hôn, nhưng tôi từ chối. Bởi lẽ tôi thấy cuộc đời mình đã đủ buồn rồi, tôi không muốn người khác cứ phải buồn theo tôi.
Hơn nữa,bởi tôi không thể nào quên được bóng hình của người chồng cũ, tôi muốn được sống trọn tình với ông ấy, nên tôi quyết ở vậy thờ chồng. Nhiều đêm, tôi vẫn mơ thấy ông ấy về thăm tôi, nhưng ánh mắt ông buồn lắm, ông cũng không khi nào nói điều gì với tôi cả. Nhiều đêm tỉnh giấc nhớ chồng mà tôi vẫn khóc ướt đầm khóe mắt”.
Chia sẻ với phóng viên, anh Đào Duy Hà, cháu bà Vui cho biết “Gia đình tôi vô cùng biết ơn ông Lê Ngọc Khánh (Đại đội 3, Tiểu đoàn 11 trực thuộc Sư đoàn 316 - Quân khu Tây Bắc). Chính ông Khánh là người tuyển ông Tửu vào lính, chiến đấu cùng ông rồi cũng chính tay ông chôn cất đồng đội mình ở nghĩa trang Mường Pốt (Lào).
Theo lời ông Khánh kể lại, trong đêm 1/4/1970, lúc ông Khánh cùng nhặt nhạnh thi thể còn sót lại của ông Tửu và nhiều đồng đội khác đem đi chôn cất, thấy những di vật còn sót lại như chiếc bật lửa, bút kim tinh, cái lược bằng đuya-ra và khăn thêu trong ngực áo anh Tửu đều có ghi hai chữ Tửu - Vui, nước mắt ông Khánh lã chã tuôn rơi.
Khoảnh khắc ông Khánh chôn những kỉ vật đánh dấu một cuộc tình chưa trọn vẹn ấy vào lòng đất cùng thi hài ông Tửu đã trở thành lý do ông Khánh tìm kiếm thông tin của bà Vui và giúp bà tôi đoàn tụ gia đình chồng sau này.