Vẫn... sống khỏe, bất chấp càng làm càng lỗ
Đơn cử trong số đó là Công ty chế biến trà Ô Long Jun Chow của Đài Loan (Trung Quốc). Bắt đầu làm ăn tại Việt Nam từ năm 2006, Công ty chế biến trà Ô Long Jun Chow có vốn đầu tư 6,344 tỷ đồng. Nhưng sau 4 năm hoạt động, tổng số lỗ lũy kế được công ty khai báo lên tới 23,903 tỷ đồng, tức số lỗ gấp 3,7 lần vốn đầu tư.
Tương tự như Công ty Jun Chow, Công ty Trà Đài Loan có số vốn đầu tư đăng ký là 10,427 tỷ đồng nhưng đến năm 2009, số lỗ lũy kế của công ty đã lên đến xấp xỉ 17,7 tỷ đồng. Công ty Trà Kinh Lộ cũng có vốn ban đầu 26,9 tỷ đồng, sau 4 năm hoạt động, lỗ lũy kế đã lên đến hơn 56,8 tỷ đồng. Công ty King Wan Chen, vốn đầu tư là 29 tỷ đồng nhưng kết quả cũng thua lỗ hơn 38,3 tỷ đồng.
Đáng nói đây không phải là thực trạng chung của ngành chè bởi cũng bối cảnh đó, các doanh nghiệp chè Việt Nam, cả doanh nghiệp Nhà nước lẫn doanh nghiệp tư nhân, đều có lãi và nộp ngân sách nhà nước.
Cụ thể, khi mà các doanh nghiệp Nhà nước chế biến trà ở Lâm Đồng đã nộp ngân sách tới gần 13,2 tỷ đồng, doanh nghiệp tư nhân trong nước nộp 21 tỷ đồng thì vì lỗ, trong suốt 5 năm, những doanh nghiệp FDI trên chỉ đóng góp vỏn vẹn có 272 triệu đồng thuế môn bài.
Ngoài ra, hàng xuất khẩu được ưu đãi hưởng thuế giá trị gia tăng là 0% và được hoàn 100% thuế giá trị gia tăng đầu vào. Bởi thế, các công ty FDI còn được hoàn lại thuế giá trị gia tăng đầu vào tới hơn 21,6 tỷ đồng. Trong khi đó, các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân trong nước chỉ xin hoàn thuế hơn 5 tỷ đồng. Chưa hết, phía nhà đầu tư “ngoại” còn được miễn toàn bộ thuế đất.
Theo chuyên gia ngành thuế, với logic kinh doanh bình thường, lỗ đến “ăn” cả vào vốn thì doanh nghiệp chỉ có chết, giải thể, phá sản. Vậy mà những công ty này vẫn cứ “hồn nhiên” sống khỏe, sống lâu. Câu hỏi đặt ra là họ lấy vốn từ đâu? Để bù vốn do bị thua lỗ, các doanh nghiệp FDI thường có chung một mẫu trả lời là được các công ty mẹ ở nước ngoài cho vay hỗ trợ.
Chẳng hạn như Công ty Trà Đài Loan được vay từ công ty mẹ lên đến 28 tỷ đồng bù cho khoản lỗ 17 tỷ đồng; Công ty Trà Kinh Lộ được vay hơn 27 tỷ đồng bù cho khoản lỗ hơn 26 tỷ đồng; Công ty King Wan Chen vay hơn 12 tỷ đồng từ công ty mẹ bù cho khoản lỗ 38,3 tỷ đồng. Đương nhiên các khoản vay vốn này sẽ phải trả lãi và thường lãi suất lại rất cao và do đó lại tránh được các khoản thuế thu nhập mới.
Hoặc nếu không phải là vay mượn, các công ty cũng khai là được tăng vốn bổ sung do công ty mẹ rót sang, như trường hợp Công ty Haiyih lỗ hơn 63 tỷ nhưng được công ty mẹ rót cho hơn 58 tỷ vốn bổ sung.
“Chiêu bài” phù phép giá xuất khẩu
Lỗ liên tục 5 năm, âm cả vào vốn nhưng vẫn cứ tăng trưởng quy mô đều đều, mở rộng đầu tư, đẩy mạnh sản xuất... là dấu hiệu dễ nhất thấy nhất ở những doanh nghiệp FDI chuyển giá. Trong vòng tròn khép kín khi giao dịch mua bán với công ty mẹ, các thanh tra viên chống chuyển giá cuối cùng cũng tìm ra sự thật.
Chiêu chuyển giá trắng trợn của một số doanh nghiệp FDI đã bị Cục Thuế tỉnh Lâm Đồng vạch trần và 17 doanh nghiệp trà Đài Loan đã bị bêu tên khi khai lỗ một cách quá mức, quá bất thường.
Chiêu bài phổ biến nhất là các doanh nghiệp có vốn “ngoại” đã phù phép giá thấp để giả lỗ, trốn thuế, chuyển lợi nhuận về công ty mẹ ở Đài Loan.
Theo đó, sau khi chế biến chè thành phẩm, các doanh nghiệp đóng gói xuất khẩu sang thị trường nước ngoài (nơi có công ty mẹ) với giá rất thấp chỉ từ 2,8 đến 4 USD/ kg, trong khi chi phí sản xuất một kg trà thành phẩm đã lên đến 8 đến 9 USD/kg. Sản phẩm trà được chuyển về công ty mẹ, phân nhỏ rồi mới gắn nhãn mác và bán với giá cao hơn rất nhiều.
Điển hình như trà ô long, loại sản vật truyền thống gốc từ Đài Loan, Trung Quốc, có giá bán lẻ 2-3 triệu đồng/kg tại Việt Nam. Được quảng cáo là giúp ngăn ngừa ung thư, nhiều hộ khá giả không ngại ngần bỏ tiền bạc triệu mua trà về uống, thậm chí đua nhau mua để biếu xén như món quà quý.
Thế nhưng, ở các công ty FDI Đài Loan này, giá xuất khẩu ban đầu cho công ty mẹ ở Đài Loan chưa chỉ đến 1 USD/kg, tức chỉ 17.000-18.000 đồng/kg, nếu tính theo tỷ giá lúc đó. Sau này, giá xuất khẩu tăng hơn chút nhưng cũng chỉ nhích lên có 2-4 USD/kg, tương đương có 40.000-80.000 đồng/kg. Như vậy, mức chênh lệch giữa giá bán trên thị trường và giá xuất cho công ty mẹ lên tới hơn hàng chục lần.
Hay Công ty TNHH Haiyih bán sản phẩm trà lên men một phần cho doanh nghiệp trong nước, giá bình quân 491.000 đồng/kg, song bán cho công ty mẹ tại Đài Loan chỉ 3,8 USD (tức khoảng 80.000 đồng).
Tương tự, Công ty TNHH Tứ Hải (thuộc Ing Dian Company) bán sản phẩm trà lên men cho doanh nghiệp trong nước bình quân 200.000 đồng/kg, nhưng khi bán cho công ty mẹ ở Đài Loan giá là 3,3 USD (70.000 đồng). Giá bán xuất khẩu của các công ty này chỉ bằng 13 đến 61% so với giá bán nội tiêu của các doanh nghiệp có sản phẩm bán trong nước, chỉ bằng 61% so với giá thành bình quân chung.
Xác minh lại ở các công ty trà Đài Loan tại Lâm Đồng, kết quả kinh doanh thực ra đã có lãi ngay từ năm đầu tiên vào Việt Nam, năm 2005-2006. Chỉ riêng tổng số doanh thu của Công ty chế biến trà Jun Chow cho thấy lại là đều tăng 200%.
Các doanh nghiệp FDI trên đều phải “cúi đầu” chấp nhận, giá thực tế xuất khẩu cao hơn khoảng từ 2 đến 3 lần so với giá kê khai. Ví dụ, giá kê khai bình quân từ 3 đến 4 USD/kg thì giá xác định lại bình quân từ 5,5 đến 11,68 USD/kg.
Qua thanh tra, cơ quan thuế Lâm Đồng đã hướng dẫn 17 doanh nghiệp FDI xử lý hết số lỗ lũy kế trong hạn chuyển lỗ đến hết cuối năm 2009 hơn 316,5 tỷ đồng. Trong đó, Công ty TNHH HaiYih xử lý lỗ lũy kế với số tiền là 63,6 tỷ đồng, Công ty Trà Kinh Lộ 56,8 tỷ đồng, Công ty TFB Việt Nam 47,9 tỷ đồng...
Các doanh nghiệp này cũng đã kê khai và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với số tiền gần 8 tỷ đồng. Từ con số lỗ lũy kế 311,685 tỷ đồng, các doanh nghiệp FDI này phải thừa nhận sự thật đã lãi hơn 1.033 tỷ đồng. Sau khi giảm hết tất cả các khoản chuyển lỗ và kể từ năm 2010 trở đi, các doanh nghiệp này đã không được ưu đãi miễn thuế thu nhập doanh nghiệp nữa.
Xét theo con số tuyệt đối thì giá trị truy thu thuế trong các vụ việc trên không lớn, song do đây là những trường hợp điển hình chuyển giá thông qua phù phép hạ giá xuất khẩu. Tuy nhiên, chuyện ở các doanh nghiệp nông sản này chỉ là con số nhỏ.
Có những vụ việc, số truy thu lên tới cả trăm tỷ đồng và đều dính đến các thương hiệu nổi tiếng tại Việt Nam. Đồng thời, cũng có rất nhiều trường hợp chưa phát hiện, hoặc đã có nghi vấn nhưng việc thanh tra và kết luận vẫn còn rất nhiều khó khăn và thách thức.