Đó là những năm tháng bình yên của mùa Tết thập kỷ 80, Hà Nội vẫn ngõ nhỏ, phố nhỏ, cây bàng lá đỏ nằm kề cây cơm nguội vàng. Tháng củ mật, rét cắt da cắt thịt, mảnh sân trước nhà mẹ dùng liếp để chắn gà vào vườn rau diếp, cẩn thận trồng thêm luống mùi. Vừa trồng mẹ vừa lẩm nhẩm "năm nay rét sớm, gần Tết mà nắng là hỏng hết rau, hết mùi của tôi, rồi mẹ con lại hôi hám cả năm".
Chị cả ngồi nhặt đỗ bên hiên, "đế" theo "giờ có xà phòng thơm rồi, lo gì mẹ". "Cha bố nhà cô, xà phòng thơm một lúc, nước mưa vào chả hôi như cú". Chị thứ, chị ba cười rích rích còn cô em út bận đút cơm cho em búp bê, chẳng nói năng gì...
Nhà hồi ấy chẳng dư dả gì cho mấy, nhưng cả xã hội bấy giờ đều nghèo như nhau, Tết đến cha mẹ lo bạc tóc mới có nồi bánh chưng, cân giò, cân thịt. Chị em tôi thích ăn thịt gà được bà nội gửi từ quê ra, những con gà ri luộc lên vàng hươm, béo ngậy.
Bố bảo đó là công bà cả năm nhặt thóc rụng nuôi gà còn bà ăn sắn, ăn ngô, ăn bo bo. Nhớ lại vẫn còn thương, người đàn ông tóc muối tiêu, nói đoạn, quay đi lấy gấu áo chấm nước mắt vừa chợt chảy tràn. Mẹ chép miệng "ra Giêng em nghỉ phép năm, vợ chồng con cái về ăn Tết lại với bà".
Chiều 30 Tết, chị cả chở tôi trên chiếc xe đạp Thống Nhất nữ của mẹ, chị thứ chở em tư trên chiếc xe Thống Nhất nam của bố, cô út khóc sủi bong bóng đứng đầu ngõ mếu máo dặn với theo "bóng bay". Ghi đông xe chị cả có một túi dết to, tôi ôm trong lòng một hộp đựng đường hoa mai, cô tư ôm một chục trứng gà. Bốn chị em rẽ vào ngõ chợ Khâm Thiên, chờ tới lượt làm bánh bích quy.
Hồi ấy, lò bánh bích quy ở ngõ chợ Khâm Thiên nổi tiếng lắm, mỗi năm tới vụ Tết là nổi lửa ngày đêm. Mọi người mang tới bột mì, đường, trứng và chủ lò nhận "hiện vật" và trả lại là những chiếc bánh quy hình con cá, hình đồng xu, nóng giòn, thơm phưng phức. Đôi lúc, nhóm thợ cả nhìn các chị tôi xúng xính áo hoa, má đỏ hồng vì nhuốm hơi than, làm cháy cả mẻ, ông chủ lò đổ bánh hỏng ra chiếc mẹt con con, bọn trẻ con thi nhau vào nhón ăn. Tôi đã ăn trăm ngàn món ngon trên trái đất này nhưng vị của chiếc bánh quy hồi ấy, luôn là ngon nhất...
...Bốn chị em về tới nhà lúc thành phố đã lên đèn, bố đang lúi húi bên nồi bánh chưng đỏ lửa cùng mấy bác hàng xóm. Mẹ đang gói giò xào, miệng hát mấy câu chèo quen thuộc "Thắm với phai nào ai có biết, Cái ngãi đá vàng ta quyết yêu nhau". Chị cả rửa đám bùn đất bám trong rễ mùi, bố bắt đầu vớt bánh ra khỏi nồi, chiếc xoong quân dụng được dùng để nấu nước tắm. Chị thả bó mùi già và mớ mùi của vườn nhà vào xoong, một thoáng, hương mùi già lan tỏa khắp gian nhà nhỏ.
Mẹ khoan khoái hít hà mùi hương quen thuộc, giục chị thứ tắm cho em út, chị cả dành nước cho bố tắm gội trước khi thắp hương giao thừa, kiểm tra bánh chưng xem đã đủ độ rền chưa. Ngoài ngõ, mấy cậu trai "trồng cây si" hai chị tôi cũng đã chịu về sau khi giúp bố chẻ thêm củi phòng năm mới mẹ cần ninh thêm măng, luộc thêm gà. Con ngõ nhỏ vắng thênh thang chỉ còn hơi xuân nồng nàn quấn lấy hương lá mùi già ấm áp...