Đi tìm lời giải câu thành ngữ “Vắng như chùa Bà Đanh”
Chùa Bà Đanh và Núi Ngọc nằm về phía Đông Nam xã Ngọc Sơn. Ba mặt khu di tích này có dòng sông Đáy bao quanh. Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 khu vực chùa Bà Đanh nằm tách ra xa khu dân cư. Tại đây cây cối um tùm nên vắng người qua lại. Mỗi khi dân làng có việc phải lên chùa vào buổi tối lại phải đốt đuốc và gõ chiêng gõ trống để xua đuổi thú dữ. Chính vì vậy dân gian truyền tụng câu: “vắng như chùa Bà Đanh".
Phía ngoài cùng chùa Bà Đanh giáp với đường đi và gần bờ sông là cổng tam quan của chùa. Công trình này được tôn cao vượt hẳn lên năm bậc và hai đầu xây bít đốc. Tam quan có ba gian, hai tầng. Tầng trên có hai lớp mái, lợp bằng ngói nam, xung quanh sàn gỗ hàng lan can và những chấn song con tiện, tầng này sử dụng làm gác chuông, ba gian dưới có hệ thống cánh cửa bằng gỗ lim.
Phía ngoài cửa hai bên là hai cột đồng trụ được xây nhô hẳn ra. Trên nóc tam quan đắp một đôi rồng chầu vào giữa. Hai bên cổng chính là hai cổng nhỏ có tám mái, cửa phía trên lượn cong hình bán nguyệt. Ngày thường, khách ra vào lễ chủ yếu đi bằng cửa bên này, chỉ khi nào nhà chùa có đại lễ thì cửa chính ở giữa mới được mở.
Chùa Bà Đanh nhìn từ trên cao (ảnh: Văn Đức) |
Cũng như các ngôi chùa khác, chùa Bà Đanh thờ Phật, song ở chùa Bà Đanh ngoài tượng Bồ Tát còn có tượng của Thái Thượng Lão Quân, tượng Nam Tào, Bắc Đẩu và các tượng của tín ngưỡng Tứ Phủ (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Phong là Thần mây, Thần mưa, Thần sấm, Thần sét) - một tín ngưỡng thờ thiên nhiên rất gần gũi với đời sống nông nghiệp Việt Nam.
Theo truyền thuyết địa phương, chùa thờ nữ thần linh thiêng trông coi việc điều mưa khiển gió, giúp dân trừ lũ lụt, đem lại mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu nên được gọi là chùa Đức Bà làng Đanh, gọi tắt là chùa Bà Đanh như tên gọi ngày nay.
Trung tâm của chùa là pho tượng Bà Đanh được tạc theo tư thế toạ thiền trên chiếc ngai đen bóng (chứ không phải là toà sen), với khuôn mặt đẹp, hiền từ, đầy nữ tính, gần gũi và thân thiết, chứ không có dáng vẻ siêu thoát, thần bí như các tượng Phật khác. Sự hài hoà giữa pho tượng và chiếc ngai tạo nên vẻ hấp dẫn của nghệ thuật điêu khắc chùa Bà Đanh.
Chùa Bà Đanh nằm trong hệ thống chùa thờ Tứ Pháp, gắn liền với những câu chuyện mang màu sắc huyền thoại, với cuộc sống lao động của nhân dân. Huyền tích trên khiến ngôi chùa có vị trí quan trọng trong tín ngưỡng của bà con, đem lại vẻ thư thái thanh tịnh cho du khách thập phương.
Đẹp và là một trong những ngôi chùa cổ kính bậc nhất Việt Nam, nhưng chùa Bà Đanh lại được biết đến bởi câu ví von “vắng như chùa Bà Đanh”. Vậy một câu hỏi lớn đặt ra tại sao một ngôi chùa đẹp, linh thiêng lại vắng vẻ, đìu hiu đến như vậy?
Đã có rất nhiều giả thuyết khác nhau lý giải cho điều này nhưng có lẽ thuyết phục nhất là do chùa Bà Đanh rất linh thiêng. Người dân địa phương thường kể lại rằng, Bảo Sơn Tự rất linh thiêng, người đi đường nếu dám cười cợt, bất kính dù chỉ một câu cũng sẽ bị trừng phạt nặng nề. Có lẽ vì thế khách hành hương ngày càng ít ghé thăm ngôi chùa này, nhằm tránh những tai hoa ập xuống do những câu vạ miệng mà ra.
Chùa gắn bó với truyền thuyết Phật mẫu Man Nương |
Bên cạnh phần linh thiêng, nhiều người cũng truyền tai nhau xung quanh chùa bà Đanh là rừng rậm, có nhiều thú dữ, hay tấn công con người, cộng thêm con đường đi lại khó khăn bất tiện (thường phải đi đường sông dể tránh thú dữ) nên càng ngày càng vắng vẻ, ít người lui tới. Cách an toàn nhất là chèo thuyền qua sông Đáy nhưng vì bất tiện nên người hành hương thưa thớt.
Ngày nay, câu nói “Vắng như chùa Bà Đanh” đã không còn đúng nữa vì chùa đã được đầu tư xây dựng với kiến trúc rất đẹp. Không những vậy, năm 1994, Chùa Bà Đanh đã được Bộ Văn hóa Thể thao & Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Nhiều năm nay, người ta đã không còn thấy cảnh vắng vẻ, hiu quạnh ở ngôi chùa này, câu “vắng như chùa bà Đanh" trước đây giờ đã được cải biên thành: “Ngày xưa vắng ngắt vắng ngơ/ Bây giờ tấp nập như chùa Bà Đanh". Hiện nay, chùa Bà Đanh đang còn lưu giữ nhiều cổ vật, cổ thư quý hiếm, nhất là tượng Phật, tượng Bồ Tát, khánh đá, đại tự, câu đối và nhang án…
Truyền thuyết Phật mẫu Man Nương
Câu chuyện về gốc tổ Tứ Pháp được hình thành từ mẹ Phật Man Nương đã lan truyền khắp vùng đồng bằng Bắc bộ và cũng được lưu hành ở đây. Người dân Kim Bảng tin rằng, từ khi thờ Tứ Pháp, vùng Bắc Ninh được mưa thuận gió hoà, phong đăng hoà cốc, mùa màng bội thu. Do vậy, họ bèn họp nhau lên xứ bắc để xin chân nhang về thờ. Các làng Vân Lâm, Đặng Xá, Vân Châu, Bầu thôn, Bài Lễ… đã xin chân nhang, tạc tượng Tứ Pháp để thờ, từ đó, tục thờ Tứ Pháp lan truyền ở các xã vùng ven sông Đáy trên đất Hà Nam.
Dân làng Đanh cũng có ý định xin chân nhang ở Bắc Ninh về thờ thì xảy ra một câu chuyện lạ. Địa phương còn lưu hành một truyền thuyết sau: Trước đây, ở vùng này luôn gặp mưa to, gió lớn nên việc sản xuất gặp nhiều khó khăn, mùa màng thất bát gây ra cảnh đói kém triền miên. Cho đến một hôm, một cụ già cao tuổi trong làng nằm mộng thấy một người con gái trẻ trung, xinh đẹp, đoan trang, khuôn mặt phúc hậu, vầng trán và đôi mắt thông minh hiện ra nói rằng: “Ta được thần cho về đây để chăm nom và chỉ khu rừng đầu làng làm nơi dựng chùa”. Vì vậy, dân làng họp bàn luận chùa thờ bà. Các cố lão chọn khu rừng đầu làng làm nơi dựng chùa, nơi ấy bấy giờ là vạt rừng rậm rạp có nhiều cây cổ thụ, sát bờ sông là một hòn núi nhỏ, nhô mình ra mặt nước, trong rừng rộn rã tiếng chim, quang cảnh thật là thần tiên.
Quả chuông cổ trong chùa |
Ngôi chùa ban đầu được xây dựng tranh tre nứa lá đơn sơ, đến năm Vĩnh Trị, đời Lê Hy Tông, khu rừng mới được mở mang quang đãng để xây chùa lại cho khang trang. Khu vực này cấm người dân làm nhà ở nên cảnh chùa càng thêm trang nghiêm, vắng vẻ. Ngôi chùa được xây dựng ít lâu thì có một cây mít cổ thụ ở quanh chùa bỗng dưng bị gió to quật đổ. Dân làng đã đẵn lấy gỗ để tìm thợ về tạc tượng.
Bỗng nhiên có một khách thập phương tìm đến chùa nói rằng mình làm nghề tạc tượng và được báo mộng đến đây. Người khách tả hình dáng và dung nhan người con gái đã báo mộng thì thấy giống hệt vị thần đã báo mộng cho cụ già trong làng. Năm ấy gặp mùa mưa lũ, nước sông dâng cao, tạc tượng gần xong thì dưới bến nước trước chùa có vật lạ, nửa nổi, nửa chìm, không trôi theo dòng nước, đẩy ra mấy lần lại thấy trôi trở lại.
Thấy chuyện lạ, dân làng vớt lên xem thì hoá ra đó là một cái ngai bằng gỗ bèn rước ngay vào chùa. Thật lạ lùng, pho tượng tạc xong thì đặt vừa khít vào ngai. Từ đó trong vùng mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, tiếng đồn Thánh Bà Bảo Sơn linh ứng lan truyền khắp nơi, khách thập phương về lễ rất đông. Những người làm nghề sông nước xuôi ngược qua đoạn sông này gặp mùa lũ đều lên chùa thắp hương cầu mong yên ổn.
Truyền thuyết này có đôi nét gần gũi với truyền thuyết Man Nương, ở những chi tiết như cây gỗ trôi sông (Truyện Man Nương) và ngai gỗ trôi sông (truyền thuyết về Bà Đanh), ở bản chất của vị thần cả hai nơi thờ đều là nữ thần nông nghiệp. Ngoài ra, ở truyền thuyết về Bà Đanh ta còn thấy bóng dáng của tục thờ thần sông nước của nhân dân vùng ven sông Đáy.
Hiện nay, chùa Bà Đanh với đền Trúc, Ngũ Động Thi Sơn (núi Cấm), khu du lịch sinh thái Tam Chúc (Ba Sao), Bát cảnh Tiên cùng với hệ thống các bến thuỷ dọc dài sông Đáy từ ngã 3 Hồng Phú, thành phố Phủ Lý sẽ hợp thành một tua du lịch “non nước hữu tình” giữa đường thuỷ và đường bộ, khá hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước.