'Chìa khóa' giúp nông dân thoát nghèo

'Chìa khóa' giúp nông dân thoát nghèo
Bản Liền chộn rộn đón khách, tăng sinh kế cho người dân. (Ảnh: Lâm Nâng)

(PLVN) - Người nông dân từng chỉ lo ngày ba bữa, phụ thuộc vào mùa vụ và thiên tai, giờ đã khoác lên mình vai trò chủ nhà trong những ngôi nhà du lịch cộng đồng. Họ không chỉ trồng ngô, nuôi lợn, làm đồng vất vả mà còn đón du khách, mời họ ngồi bên bếp lửa chỉ cách dệt khăn thổ cẩm, hướng dẫn họ cách trồng cây, gieo mạ, kể chuyện văn hóa dân tộc và thưởng thức các đặc sản nông nghiệp. Mô hình du lịch cộng đồng đang trở thành một trong những “chìa khóa” giúp nông dân thoát nghèo, thay đổi cuộc sống nông thôn Việt Nam theo hướng bền vững.

Cuộc sống sung túc từng ngày

Bản Liền là một xã vùng cao thuộc tỉnh Lào Cai. Bản Liền có địa hình đồi núi, nhiều thung lũng và ruộng bậc thang. Dân cư có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt đồng bào Tày là một trong số các dân tộc sinh sống tại đây. Nơi đây đã được đánh giá có xuất phát điểm thấp trong xây dựng nông thôn mới. Những năm gần đây, ở Bản Liền, đồng bào dân tộc như Tày đã bắt đầu khai thác thế mạnh: ruộng bậc thang, chè Shan tuyết, rừng nguyên sinh, thác nước Pắc Kẹ, văn hóa, ẩm thực dân tộc Tày, bản làng… để phát triển loại hình du lịch cộng đồng - homestay. Hiện tại xã Bản Liền đã có gần 40 hộ dân tham gia dịch vụ du lịch.

Anh Lâm A Nâng (người dân tộc Tày) cho biết, năm 2019, tham gia “Dự án Tăng cường sinh kế và vị thế của người dân tộc thiểu số” thông qua phát triển du lịch cộng đồng (do Chính phủ Australia tài trợ), gia đình anh cũng như người dân Bản Liền lần đầu được tiếp cận với khái niệm du lịch cộng đồng. “Gia đình tôi bắt đầu làm du lịch cộng đồng từ cuối năm 2019. Nhận thấy trong người Tày mình ở đây còn lưu giữ được nhiều phong tục tập quán và những nét văn hóa truyền thống, vì thế tôi muốn qua mô hình du lịch cộng đồng này giới thiệu những nét văn hóa đặc sắc của bà con mình đến du khách bốn phương, đa số là khách nước ngoài. Khách nghỉ tại bản có thể cùng dân bản đi hái chè, lên rừng hái rau, cùng lội suối bắt cá, rồi tối về chế biến thành những món ăn ngon theo ẩm thực của bà con nơi đây” - anh Lâm A Nâng tâm sự.

Hiện Bản Liền đang xây dựng bộ tiêu chí “Homestay kiểu mẫu bản Tày”, đẩy mạnh truyền thông và số hóa du lịch như khai thác triệt để hiệu ứng từ chương trình “Gia đình Haha”, xây dựng các clip quảng bá, đăng tải trên nền tảng TikTok, YouTube, Facebook; đưa thông tin du lịch Bản Liền lên Google Maps, Booking…; tổ chức các đoàn famtrip (khảo sát sản phẩm du lịch) cho báo chí, travel blogger, công ty lữ hành.

Cùng với khí hậu trong lành, cảnh quan hùng vĩ, nguyên sơ, văn hóa bản địa… Bản Liền ngày càng thu hút khách du lịch trong nước và nước ngoài đến tham quan, trải nghiệm doanh thu hàng tỷ đồng/năm mang lại sự ấm no cho người dân Bản Liền.

Hoài Khao là xóm của đồng bào Dao Tiền (Cao Bằng) nằm e ấp sau những núi non trùng điệp hoang sơ. Những mái nhà nâu trầm lợp ngói âm dương đậm bản sắc Dao Tiền đong đầy nét hoài cổ, thơ mộng ẩn hiện sau những lũy tre xanh mát. Làn điệu Páo dung cùng những cô sơn nữ miệng cười tỏa nắng duyên dáng trong bộ trang phục in hoa văn sáp ong cùng chén rượu gạo thơm nồng khiến du khách quên lối về. Người dân Hoài Khao chủ yếu sống bằng cây lúa, củ khoai, ngô sắn. Đàn ông thường lên rừng đốn củi, tìm những vị thuốc bằng lá, còn phụ nữ thường lên nương, chăm sóc con và đàn gia súc tăng gia sản xuất hay ở nhà dệt cửi, trang trí vải thổ cẩm bằng sáp ong. Họ sống mộc mạc, chân chất, hiền hòa. Do giữ gìn được những giá trị văn hóa, nếp sống giàu bản sắc của người Dao Tiền, vào tháng 10/2020, xóm Hoài Khao được chọn điểm du lịch cộng đồng nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho các hộ gia đình cũng như giới thiệu bản sắc văn hóa người Dao Tiền độc đáo của Cao Bằng.

Xóm Hoài Khao hiện có 35 hộ với gần 200 khẩu, tất cả là người Dao Tiền. Thời gian qua, người dân nơi đây như được “thay da, đổi thịt” nhờ kết hợp nghề thủ công truyền thống với du lịch cộng đồng.

Nhờ những chính sách hiệu quả, kịp thời, đời sống của người Dao Tiền tại Cao Bằng đang ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực, nhiều hộ gia đình thoát nghèo, từng bước phát triển kinh tế. “Từ khi xóm Hoài Khao trở thành điểm du lịch cộng đồng, đời sống của gia đình tôi tốt lên rất nhiều. Từ ngày làm du lịch, tôi ít phải đi làm nương nặng nhọc. Xóm nhỏ Hoài Khao đã phát triển nhiều hộ làm homestay, trung bình mỗi năm đón gần 1 nghìn lượt khách, bao gồm cả khách quốc tế. Nhiều sản phẩm thủ công như khăn tay, túi xách, váy áo thổ cẩm… từ in sáp ong cũng được bán ra ngay tại làng, mang lại thu nhập đều đặn cho người dân chúng tôi”, anh Lý Hữu Nhất, chủ homestay Nhất Nhất chia sẻ.

Khách du lịch trải nghiệm ở Hoài Khao - xóm của đồng bào Dao Tiền (Cao Bằng) khiến người dân nơi đây ngày càng ấm no. (Ảnh: Thùy Dương)
Khách du lịch trải nghiệm ở Hoài Khao - xóm của đồng bào Dao Tiền (Cao Bằng) khiến người dân nơi đây ngày càng ấm no. (Ảnh: Thùy Dương)

Cần đa dạng hóa sinh kế

Theo thống kê của Cục Du lịch Quốc gia năm 2023, Việt Nam có khoảng 300 làng du lịch cộng đồng, 5.000 homestay, sức chứa khoảng 100.000 khách. Hầu hết các làng du lịch, homestay ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó có vùng Trung du, miền núi phía Bắc. Du lịch cộng đồng đã khẳng định được vai trò quan trọng trong việc phát triển du lịch bền vững cũng như bảo tồn những giá trị văn hóa, giá trị làng nghề và tạo công ăn việc làm cho cộng đồng địa phương.

Trong bối cảnh quốc gia đặt mục tiêu phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, theo Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030, du lịch cộng đồng được xác định là một trong những hướng đi quan trọng để phát triển nông thôn, miền núi và hỗ trợ công tác giảm nghèo.

Ông Phạm Hải Quỳnh - Viện trưởng Viện Phát triển Du lịch châu Á nhận xét: “Du lịch cộng đồng đã có sự phát triển tích cực, trong đó có khu vực miền núi phía Bắc, góp phần đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cho nhiều địa phương, nhiều doanh nghiệp, tạo sinh kế, cải thiện đời sống cho người dân, đặc biệt là đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, nhờ phát triển du lịch cộng đồng, ý thức gìn giữ nét đẹp truyền thống, xây dựng môi trường văn hóa, cảnh quan văn minh, sạch đẹp của bà con cũng được nâng lên, đóng góp tích cực vào việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”.

Đối với một hộ nông dân, khi tham gia du lịch cộng đồng, họ có thể thực hiện một hoặc nhiều hoạt động: Chuyển đổi một phần nhà ở thành homestay, đón khách nghỉ lại, phục vụ ăn uống - tạo thêm thu nhập ngoài nghề trồng trọt, chăn nuôi; Cung cấp dịch vụ trải nghiệm: đi hái rau, trồng lúa, dệt thổ cẩm, đi theo đoàn khách tham quan bản làng; Bán sản phẩm địa phương (nông sản, dược liệu, thổ cẩm, sản phẩm OCOP) cho khách du lịch; Tham gia hợp tác xã hoặc tổ chức cộng đồng quản lý dịch vụ du lịch, chia sẻ lợi ích. Như vậy, từ chỉ trồng lúa, chăn nuôi nhỏ lẻ, người nông dân đã có cơ hội đa dạng hóa sinh kế, tham gia chuỗi giá trị du lịch, tăng thu nhập và giảm thiểu rủi ro do thiên tai, biến đổi khí hậu hay biến động thị trường nông sản.

Tuy nhiên, các vùng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc vẫn thiếu hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ: vùng nông thôn, miền núi thiếu đường giao thông, điện nước, internet… Điều này ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ du lịch và khả năng thu hút khách.

Chất lượng dịch vụ và trải nghiệm khách chưa đồng đều, khách không lưu trú lâu, đặc sản, đồ lưu niệm đặc trưng ít, khách ít tiêu tiền dẫn tới lợi ích cho người dân bị hạn chế. Khi du lịch phát triển nhanh nhưng thiếu kiểm soát, có nguy cơ văn hóa bản địa bị thương mại hóa, thiên nhiên bị khai thác quá mức - điều này có thể làm mất điểm hấp dẫn chính của du lịch cộng đồng, lượng khách sẽ sụt giảm, thu hẹp sự phát triển kinh tế của người dân.

Để mô hình du lịch cộng đồng thực sự giúp nông dân thoát nghèo bền vững, theo ông Phạm Hải Quỳnh cần một số giải pháp: Tăng cường đầu tư hạ tầng nông thôn - miền núi: Giao thông, điện, nước, mạng internet cần được cải thiện để người dân dễ dàng kết nối với khách du lịch, vận chuyển sản phẩm; Đào tạo nâng cao năng lực người dân: Tổ chức tập huấn kỹ năng quản lý homestay, dịch vụ khách, quảng bá online, bảo vệ môi trường và giữ gìn văn hóa bản địa; Liên kết chuỗi giá trị du lịch - sản phẩm địa phương: Khuyến khích hợp tác giữa hộ nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp du lịch để phát triển sản phẩm đặc sản, trải nghiệm và dịch vụ tham quan bản làng; Hỗ trợ cộng đồng phát triển dịch vụ du lịch nhưng đồng thời đặt ra các quy định nhằm bảo vệ rừng, môi trường, nghề truyền thống, tránh “phá giá” văn hóa để thu hút khách; Khuyến khích mô hình đa dạng hóa sinh kế để người dân không nên chỉ phụ thuộc vào du lịch; cần kết hợp với nông nghiệp, thủ công, sản phẩm OCOP để khi du lịch giảm thì vẫn có nguồn thu khác.

Các chương trình giảm nghèo, nông thôn mới cần gắn với phát triển du lịch cộng đồng, nguồn vốn tín dụng vi mô, hỗ trợ khởi nghiệp du lịch cần thiết để giúp hộ nông dân có vốn ban đầu. Bên cạnh đó, cần có lộ trình thực hiện cụ thể, huy động sự đóng góp của các chuyên gia chuyên sâu về du lịch cộng đồng trong công tác tư vấn, đào tạo nhân lực, xây dựng cảnh quan bản làng mang đậm bản sắc dân tộc và các sản phẩm du lịch đáp ứng nhu cầu của du khách trong và ngoài nước. 

Thùy Dương