Chỉ biết sống và chiến đấu
Trở lại chiến trường miền Nam ở độ tuổi 25-30, giờ những chiến sĩ trung kiên ngày ấy đã ở vào tuổi 80, tóc bạc, da mồi. 50 năm đã trôi qua kể từ khi họ thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng khóa 2, chuyển từ đấu tranh chính trị đơn thuần sang đấu tranh chính trị có vũ trang. Dấn thân vào cuộc trường chinh gian khổ của dân tộc, người mất, người còn. Nay, họ gặp nhau lần đầu tiên và có thể là lần cuối cùng...
Trở lại chiến trường miền Nam ở độ tuổi 25-30, giờ những chiến sĩ trung kiên ngày ấy đã ở vào tuổi 80, tóc bạc, da mồi. 50 năm đã trôi qua kể từ khi họ thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng khóa 2, chuyển từ đấu tranh chính trị đơn thuần sang đấu tranh chính trị có vũ trang. Dấn thân vào cuộc trường chinh gian khổ của dân tộc, người mất, người còn. Nay, họ gặp nhau lần đầu tiên và có thể là lần cuối cùng...
Tuổi thanh xuân gửi lại rừng
![]() | |
|
Ông Nguyễn Thanh Thủy và ông Đỗ Phú Đáp. |
Nói về thành phần “chất lượng cao” này, ông Đỗ Phú Đáp lúc đó là Đại úy, cán bộ tham mưu khu ủy thời kỳ đầu, đã có gia đình, kể: “Lúc đó chúng tôi phải đấu tranh tư tưởng rất căng, phải thông suốt để lên đường làm nhiệm vụ; có thể là một đi không trở lại. Lúc đó tôi đã phải nói dối với vợ con là “đi Liên Xô” học tập”. Mãi đến năm 1963, ông mới có thể viết thư về cho gia đình nói rõ sự thật. Và đến năm 1975, lúc ông đang làm nhiệm vụ ở Đà Lạt, vợ ông đi công tác hai người mới gặp nhau, và cũng phải vài năm sau ông mới gặp mặt các con.
Nhận nhiệm vụ lên đường tháng 7-1959, những cán bộ vào Nam được xe đưa vào đến địa phận Quảng Bình, rồi từ đó bắt đầu cắt rừng mà đi. Bỏ lại phía sau lưng họ tên thật, và những gì “liên quan đến miền Bắc” như ống kem đánh răng có chữ của Trung Quốc cũng phải tẩy sạch. Trong ba lô chỉ có áo quần, lương khô, gạo, muối, 2 khẩu súng và những tấm hình chụp người thân của các đồng đội đang ở miền Bắc, có gia đình ở Quảng Nam, Đà Nẵng để sau này bắt liên lạc, tìm cơ sở hoạt động.
Các anh có giao liên ở các trạm dọc đường dẫn đi, đi theo vệt đường mòn trong rừng vì lúc đó chưa có đường Trường Sơn, nhiều đoạn đường chưa hề có dấu chân người. Đi qua sẽ có người xóa dấu vết, đêm mắc võng trong rừng ngủ, giữ bí mật tuyệt đối với cả người dân tộc ở các bản làng. Sau 3 tháng băng rừng như thế, các đoàn vào đến A Vương (huyện Tây Giang, Quảng Nam sau này). Mỗi đoàn có từ 4-5 người, có đoàn 12 người (có 1 bác sĩ hoặc y tá theo đoàn), trong 2 năm 1959 và đầu 1960, có hơn 150 người gồm các lực lượng đặc công, bộ binh, thông tin liên lạc, công binh, lãnh đạo khu ủy... vào chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng để gây dựng cơ sở, phát triển lực lượng.
Vào đến Quảng Nam, lực lượng cán bộ này bắt đầu chia nhau về các huyện Nam Giang, Tây Giang, Đông Giang và cũng chỉ ở trong rừng, bắt liên lạc dần với cán bộ cơ sở. Đến đầu năm 1960, các anh mới liên hệ với đồng bào, ngày đi làm rẫy, tối huấn luyện quân sự cho lớp thanh niên và làm công tác dân vận. Đồng bào dân tộc biết các anh là bộ đội cụ Hồ nên ủng hộ đến cùng. Ông Hồ Phúc Ngôn, nguyên chiến sĩ đặc công nhớ lại: “Đồng bào rất tin Đảng, tin Bác Hồ. Đến mùa thu được 50 gùi lúa, họ chia cho bộ đội 30 gùi, giữ lại phần mình ít hơn”.
Những năm tháng tuổi trẻ đẹp nhất của cuộc đời, các ông đã gửi lại nơi chiến trường. Ông Trần Kim Hùng, Anh hùng LLVT, lính đặc công Khu 5 quê gốc ở Bình Định, tuân theo sự phân công của Đảng, đã chiến đấu ở chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng hơn 20 năm. Vào miền Nam năm 1959, đến tháng 12-1964, trong trận đánh vào phía bắc tỉnh Bình Định, ông ghé về nhà được một lúc thăm cha mẹ. Ông kể: “Ghé về nhà cũng không ai nói được điều gì, mẹ tôi chỉ ôm lấy con mà khóc.
Bà khóc y như hồi tôi mới tham gia cách mạng năm 1948”. Đã chấp nhận đi bộ đội, không ai còn biết sợ là gì nữa, đã đi là không hẹn ngày về, không ai nghĩ đến việc sống hay chết, mà chỉ biết sống và chiến đấu.
Người đi đầu nếm mật, nằm gai
![]() | |
|
Ông Trần Kim Hùng và cuốn nhật ký ghi lại các trận đánh trong kháng chiến chống Mỹ. |
Giữ bí mật, vận động quần chúng tốt thì sẽ đánh giặc tốt”. Ông Nguyễn Thanh Thủy, nguyên chiến sĩ đặc công đã 3 lần bị thương nặng ở chiến trường, kể: “Anh em phải biết vượt qua gian khổ, vì thường xuyên đánh địch trong điều kiện trời tối, vào mùa đông vẫn phải ở trần, chui qua gần chục lớp hàng rào dây thép gai, có khi đánh xong không rút ra được phải ở lại trong sân bay, chờ đến đêm hôm sau mới ra được”.
Sự gian khổ trong điều kiện này không thể so sánh với bất kỳ điều gì mà những cán bộ nhận nhiệm vụ đi đầu gây dựng lực lượng đã trải qua. Khi bắt đầu làm công tác dân vận với đồng bào đầu năm 1960, các anh phải đồng thời đi tìm lực lượng thanh niên ở dưới xuôi, đang sống trong vùng địch. Đêm băng rừng về các huyện Tiên Phước, Điện Bàn vận động thanh niên là con em các cơ sở cách mạng, hoặc là cơ sở nhưng đã bị lộ nhập ngũ; vào rừng vận động những người chuyên sống bằng nghề rừng. Có lực lượng rồi, các anh tổ chức huấn luyện cách đánh đặc công với tất cả vũ khí thô sơ kiếm được, giai đoạn này chưa có súng.
Ông Trần Kim Hùng kể, ông đã về Tiên Phước vận động được gần 300 thanh niên theo cách mạng, nhưng lúc lên đường thì chỉ có một người đi cùng ông. Đi được hơn nửa đường, người đó cũng bỏ về. Các ông nhận xét rằng làm công tác dân vận rất khó, vì nhiều thanh niên không chịu được khổ đã bỏ về. Nhưng vẫn có hàng nghìn thanh niên theo cách mạng như ông Nguyễn Đình Tham, nay cũng vào lớp “thất thập cổ lai hi” đã thoát ấp chiến lược, tìm lên rừng tham gia kháng chiến. Khi đã ổn định tình hình, lúc đó lãnh đạo khu ủy đã rút hết các đội vũ trang tuyên truyền về, thành lập đơn vị H 29-là đại đội đặc công Quảng Nam-Đà Nẵng. Năm 1961-1962 đã thành lập được một trung đội trinh sát, một trung đội bộ binh.
Và chiến công đầu tiên của những cán bộ, chiến sĩ vô Nam đầu tiên là trận Hiệp Đức tháng 9-1960. Ông Nguyễn Thanh Thủy đã ghi chiến công đầu tiên giai đoạn đánh Mỹ là giết tên chi trưởng cảnh sát Hiệp Đức. Sau đó bộ đội đã lập chiến công ở các trận Trao-Đông Giang, Botxit, Phò Nam. Năm 1962 đánh từ Phước Sơn ra đến Nam Hải Vân. Cũng năm này cách mạng đã làm chủ vùng miền Tây Quảng Nam và tiếp tục xuống đồng bằng phá ấp chiến lược, đánh sân bay Nước Mặn, sân bay Đà Nẵng, cầu Thủy Tú, cầu Đỏ... Những trận đánh, những cái tên không thể nào quên trong ký ức những người lính năm xưa.
Giờ chỉ còn chưa đến 40 người trong số những người tiên phong vào miền Nam chiến đấu 50 năm trước. Các anh hy sinh trong chiến tranh, một vài người già yếu đã thành người thiên cổ, không chờ được ngày đoàn tụ hôm nay. Đây là lần đầu tiên những người lính tiên phong năm xưa tổ chức gặp mặt, và có thể cũng là lần cuối cùng họ được gặp nhau. 50 năm dằng dặc trôi qua giữa bao sự đổi thay, nhưng câu chuyện của những người đi đánh giặc, thống nhất đất nước được kể lại như mới hôm qua. Bởi trong ký ức những người lính đó, họ sẵn sàng đi trước về sau, mong mang lại bình yên, tự do cho quê hương, cho dân tộc.
Ghi chép của HOÀNG NHUNG

