Chết không nhắm mắt

Cha tôi hai đời vợ. Mẹ lớn tôi sinh ra anh và chị tôi rồi không may mất sớm. Mười năm sau, cha tôi mới đụng mẹ tôi, sinh ra hai anh em tôi.

Cha tôi hai đời vợ. Mẹ lớn tôi sinh ra anh và chị tôi rồi không may mất sớm. Mười năm sau, cha tôi mới đụng mẹ tôi, sinh ra hai anh em tôi.

Tôi là anh, tuổi Dậu. Em gái tôi tuổi Tý, kém tôi ba tuổi. Người ta bảo: Tuổi Quý Dậu như tôi, sướng. Còn tuổi chuột của em tôi thì phận hèn, thân khổ.
Mà coi lại cũng đúng thật.

Tôi, hồi nhỏ đi học ở Hội An, lớn lên vào Quảng Ngãi học, tập kết ra Bắc lại tiếp tục học, rồi ra làm cán bộ. Sau giải phóng, được về quê công tác, tinh thần phấn chấn, công tác hăng say nên cũng được bổ một chức quan nhỏ. Tuy không được “ngồi bàn thờ để người ta lạy” như bạn bè thường chế giễu cái tuổi con gà của tôi nhưng so với bà con họ hàng ở quê và số đông cán bộ thời bao cấp, số tôi cũng có thể được coi là phong lưu.

Còn em gái tôi? Hồi nhỏ, cơ khổ, chẳng được học hành gì. Sau ngày cướp chính quyền, nhờ phong trào bình dân học vụ, mới được đến lớp xóa mù. Nhưng cũng chỉ lom lem được mấy chữ i tờ, đủ để chui qua được cái dây giăng đường mà đi xuống chợ.

Những năm sống ở trong này, nhà tôi lại bị xếp vào loại có người tập kết. Cha mẹ tôi đã già được hưởng chế độ quản lý tại gia còn em gái tôi thì trần sanh cuốc chỉa, nay gọi mai gọi đi tố cộng tố trừ nhừ tử.
May mà, rồi cũng có chồng, có con. Nhưng cảnh nhà bên chồng cũng cực. Suốt ngày, cô em tôi cứ bu riết cái sạp rau ở chợ để nuôi bầy con, cứ sòn sòn năm một.

Sau ngày Hội An được giải phóng, em bỏ liền mấy buổi chợ đi tìm anh. Cứ thượng Chùa Cầu, hạ Ông Bổn, gặp ai mặc đồ giải phóng lại nhìn sững, coi thử có phải anh mình không. Cả ngày, đi xuống rồi lại đi lên. Như thể mấy bà bán vé số bây giờ. Một ngày, hai ngày, rồi ba bốn ngày… Không biết đến ngày thứ mấy thì bất thình lình đứa con gái lớn chạy tìm mẹ, hét lớn: “Mẹ ơi, cậu Bảy về rồi, đang trên ngoại nớ”. Rồi hai mẹ con quắn quíu chạy về. Em tôi nhào tới ôm chầm lấy tôi. Rồi khóc. Tôi nén xúc động, nói giả lả:
- Anh có chết mô mà khóc ghê rứa?
- Thì nước mắt ứ lại ba mươi năm nay, ít chi?
- Mấy con rồi?
- Bảy tám chi đó.
- Chứ ở với ông Thiệu sướng rứa, răng mà ốm nha ốm nhách ri.
- !.?...
Em tôi lặng lẽ quay mặt. Lại thút thít khóc.
Những ngày đầu mới giải phóng, cơ quan tôi tạm đóng ở Hội An. Một bữa, tôi tranh thủ chạy về thăm, lúc cả nhà cô còn chưa dậy. Cả bầy con ôm nhau trên phản gỗ, phủ vải dù đèn làm màn. Bà nội và cha mẹ các cháu thì nằm không, kéo chiếu đắp kín mặt để chống muỗi, bảo: Ngủ rứa quen rồi.

Một bữa khác, tôi cố tình chạy về trúng bữa ăn. Một cái nồi để giữa bàn, ba phần khoai một phần cơm. Cả nhà xúm quanh ăn rào rào, chỉ với rau luộc và cá vụn. Tôi nhìn qua rồi bước vội ra sân, cắn môi nhìn trời.

Từ hôm ấy, thỉnh thoảng tôi lại đèo về một túm gạo. Biết tình cảnh em tôi, mỗi lần cắt cơm, anh em trong cơ quan lại lấy phần gạo nhà bếp gom lại cho tôi. Nhưng có thấm tháp gì. Cảnh nhà cô cứ thiếu trước hụt sau. Chồng là thợ may giỏi nhưng gặp thời buổi người ta toàn mặc áo quần cũ. Rứa là trên mười miệng ăn chỉ trông vào cái sạp rau chỉ bằng nửa chiếc chiếu ở chợ. Sáng ra, đèn đường chưa tắt, cô đã lọ mọ xuống dọn hàng. Chiều, phố đã lên đèn từ lâu, cô mới thất thểu bước ra khỏi chợ. Cứ rứa, đắp đổi qua ngày.

Nhưng… trời sinh voi, trời sinh cỏ. Có lẽ, nhờ ăn được lá cỏ trời mà em gái tôi, chưa mấy tuổi đà khọm khọ, đã hóa thành con voi thần thoại, đủ sức kéo nổi cái gia đình đông đúc và nhếch nhác ấy đi qua những năm tháng khốn khó, ở một thị xã nghèo sau ngày giải phóng.
Cho đến một ngày…
Hôm ấy, tôi đang ở Đà Nẵng, thì nhận được tin dữ: Em tôi chết đột ngột, giữa giấc ngủ!
Chừng một tiếng sau, tôi đã có mặt ở nhà. Rất đông người đi ra đi vô, không nhớ ai với ai. Ai cũng ngơ ngác,
cũng thất thần như trong chiêm bao.
Anh trai tôi bảo:
- Rứa là… bốn giọt máu của cha đã rơi mất một.
Chị tôi mắt mở to nhìn tôi, như muốn hỏi điều gì đang xảy ra, rồi nói nhỏ:
- Tội tình con nhỏ! Chết mà không nhắm mắt được. Ai vuốt cũng không… Đang nuối em đó…
Ai đó đến đỡ tôi, dìu vào. Tôi run rẩy lật cái khăn đắp mặt, gặp ngay đôi mắt em tôi mở trừng trừng, không nhìn tôi mà nhìn thẳng lên nóc nhà như đang hờn dỗi. Ai đó thì thào sau lưng “Đừng khóc! Vuốt nhẹ từ trán xuống. Nói một lời để em nó đi được nhẹ nhàng…”. Nhưng tôi không thể mở miệng được: Hai hàm răng cứ dính chặt vào nhau. Tôi từ từ đặt bàn tay lên trán em tôi. Da người mà lạnh như nước đá. Có ai đó lại nhắc:

“Vuốt nhẹ đi. Rứa, rứa…”.
Bàn tay tôi vuốt đến đâu, thấy lạnh buốt đến đó. Khi tôi rụt tay lại, như có phép lạ, đôi mắt em tôi chầm chậm khép lại. Hai giọt nước, một thứ nước vàng sánh như dầu, ứa ra ở hai đầu khóe mắt.
- Mô Phật! Mô Phật!...

Những người đứng quanh chắp tay rầm rì khấn vái.
Tôi đắp mặt lại cho em tôi và vùng chạy ra sân, bàn tay vừa vuốt mắt em nắm chặt lại, như sợ đánh rơi một vật lạ.

Từ lúc được tin, tôi cứ điếng người đi. Cho đến lúc này như có một cơn dông bỗng ùn ùn nổi lên trong lồng ngực. “Trời !!!”. Tôi gào lên như điên. Rồi bật khóc. Khóc như mưa. Cứ cố nín, lại khóc to hơn.
Lúc đã nín được, tôi xòe bàn tay ra, nhìn. Bỗng sực nhớ hồi nhỏ, hai anh em đi khiêng nước, lầy quầy thế nào bị nghiêng thùng, nước đổ lênh láng ra giữa đường. Tôi đổ tội cho em. Em tôi cãi. Tức mình, tôi đã tát em. Em tôi òa khóc rất to, tức tưởi gọi mẹ. Cái bàn tay đã tát em trên ba mươi năm về trước cũng chính là cái bàn tay vừa vuốt mắt cho em.

Tôi rùng mình nắm chặt bàn tay lại. Hơi lạnh từ bàn tay lan nhanh khắp cơ thể. Người tôi lạnh toát.
Cái lạnh này chắc còn ngấm vào tôi cho đến lúc chết - chết mà không thể nhắm mắt.

Phạm Phát