Tại Điều 6 quy định mức phạt đối với các hành vi vi phạm quy định về hoạt động hành nghề luật sư, một trong những hành vi vi phạm bị đề xuất áp dụng mức phạt tiền từ 3 triệu đồng đến 7 triệu đồng là hành vi “Không thông báo hoặc thông báo không đầy đủ cho khách hàng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nghề nghiệp của mình trong việc thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng”.
Còn mức phạt tiền từ 7 triệu đồng đến 10 triệu đồng có thể được áp dụng đối với một trong các hành vi: “Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân cung cấp dịch vụ pháp lý cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác ngoài cơ quan, tổ chức mình đã ký hợp đồng lao động, trừ trường hợp được cơ quan nhà nước yêu cầu hoặc tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và thực hiện trợ giúp pháp lý theo sự phân công của Đoàn Luật sư mà luật sư là thành viên”; “Luật sư đã thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư nhưng lại làm việc theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức khác với hình thức luật sư hành nghề với tư cách cá nhân”; “Hành nghề không đúng hình thức hành nghề luật sư theo quy định”; “Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp theo quy định trong trường hợp hợp đồng lao động với cơ quan, tổ chức có thỏa thuận”; “Không tham gia bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ”.
Nếu vi phạm một trong các hành vi: “Sửa chữa hoặc tẩy xoá hoặc làm sai lệch nội dung chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư, giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam, giấy chứng nhận về việc tham gia tố tụng, giấy chứng nhận người bào chữa”; “Cho người khác sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư hoặc giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam để hành nghề luật sư”..., người vi phạm có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 15 triệu đồng.
Mức phạt tiền từ 15 triệu đồng đến 20 triệu đồng được đề xuất áp dụng đối với một trong các hành vi: “Luật sư hành nghề khi chưa được cấp giấy đăng ký hành nghề luật sư hoặc chưa được cấp giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam”; “Sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư hoặc sử dụng giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam của người khác để hành nghề luật sư”; “Sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư, giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam, giấy chứng nhận về việc tham gia tố tụng, giấy chứng nhận người bào chữa giả”.
Nhiều hành vi vi phạm trong hoạt động luật sư mà dư luận thời gian qua rất quan tâm được đề xuất mức phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 30 triệu đồng, trong đó có các hành vi: “Làm giả chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư, giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam, giấy chứng nhận về việc tham gia tố tụng, giấy chứng nhận người bào chữa”; “Không phải là luật sư mà quảng cáo, giới thiệu là luật sư, hoạt động tư vấn pháp luật, cung cấp dịch vụ pháp lý với danh nghĩa luật sư hoặc mạo danh luật sư để hành nghề luật sư dưới bất kỳ hình thức nào”; “Tự mình hoặc giúp khách hàng thực hiện những hành vi trái pháp luật nhằm trì hoãn, kéo dài thời gian hoặc gây khó khăn, cản trở hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan nhà nước khác trong quá trình cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng; Có lời lẽ xúc phạm cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình tham gia tố tụng”; “Sách nhiễu, lừa dối khách hàng; nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích vật chất khác ngoài khoản thù lao và chi phí đã thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý”... Luật sư có hành vi ứng xử, phát ngôn làm ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín, nghề luật sư hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức cá nhân mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự cũng có thể bị áp dụng mức phạt này.
Trong khi đó, mức phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 40 triệu đồng đối với một trong các hành vi: “Cố ý cung cấp hoặc hướng dẫn khách hàng cung cấp tài liệu, vật chứng giả, sai sự thật”; “Xúi giục khách hàng khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo trái pháp luật”; “Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác”; “Móc nối, quan hệ với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cán bộ, công chức, viên chức khác để làm trái quy định của pháp luật trong việc giải quyết vụ, việc”; “Nhận và thực hiện vụ, việc với mục đích trái pháp luật, trái nguyên tắc hành nghề luật sư, vi phạm điều cấm của Luật Luật sư”; “Lợi dụng danh nghĩa luật sư để tham gia lôi kéo, kích động, mua chuộc, cưỡng ép người khác tập trung đông người để gây rối trật tự công cộng, thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Người vi phạm còn bị tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư hoặc giấy phép hành nghề luật sư và hủy bỏ giấy tờ giả, buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm…