Cây đàn nước ở Bảo tàng Đà Nẵng
Âm thanh của Cooang-tac chính là tiếng giục giã người Xê-đăng lên nương, lên rẫy, cũng là tiếng gọi ấm áp, thân thương của nước, của núi rừng gọi người về đoàn tụ…
Âm thanh của Cooang-tac chính là tiếng giục giã người Xê-đăng lên nương, lên rẫy, cũng là tiếng gọi ấm áp, thân thương của nước, của núi rừng gọi người về đoàn tụ…
![]() |
| Cây đàn nước ở Bảo tàng Đà Nẵng. |
Bảo tàng Đà Nẵng vừa khôi phục và trưng bày Cây đàn nước-một nhạc cụ độc đáo của người Xê-đăng, sự hiện diện của cây đàn với kích thước và dàn âm thanh ấn tượng góp phần hoàn thiện hơn gian trưng bày về văn hóa các dân tộc thiểu số ở Bảo tàng Đà Nẵng.
Cây đàn nước, theo cách gọi của người Xê-đăng có tên là Cooang-tac. Tương truyền, lúc đầu nó được người ta sử dụng như một dụng cụ phục vụ sản xuất, khi ấy, Cooang-tac chỉ là chùm những ống nứa, ống tre dựa sức chảy của dòng nước, đập vào nhau để đuổi chim muông, thú vật cắn phá hoa màu. Dần dần về sau, do nhu cầu thưởng thức âm nhạc, người Xê-đăng sáng tạo và gắn thêm chức năng của nhạc khí để nó trở thành một nhạc cụ như bây giờ.
Vật liệu chế tác đàn là tre, nứa, le, mây và các loại thân dây leo, cây đàn nước là nhạc khí thuộc dòng họ tre nứa. Nhưng dàn đàn được người Xê-đăng làm bằng gỗ cây rừng. Kích thước của đàn không cố định: chiều dài dàn đàn có thể là 20m, 60m hoặc 30, 40m… tùy thuộc vào làn điệu từng dân tộc hoặc nhạc phẩm của nghệ nhân mà nối dài hoặc thu ngắn (bằng cách thêm hoặc bớt ống đàn). Tuy nhiên, dàn đàn càng dài, với càng nhiều ống thì hiệu quả âm thanh đưa lại càng phong phú và hoàn thiện hơn.
Âm thanh của Cooang-tac được tạo nên bởi một dàn tổng lực liên hoàn của nhiều bộ phận làm việc không ngừng nghỉ, nhịp nhàng, ăn ý. Như một dây chuyền làm việc hối hả, chỉ một mắt xích dừng lại, lập tức, chúng ta có thể sẽ không có cơ hội được thưởng thức thứ âm thanh diệu kỳ từ cây đàn nước: Khởi nguồn từ nước, thông qua một khung dao động, khung này gồm một sợi dây dài, đầu dây này được mắc vào một hòn đá lớn, đầu dây kia mắc vào một máng nước. Khi máng nước không có nước, nó nằm ngay vị trí mà thác nước đổ xuống (nhờ sức kéo của hòn đá). Lúc máng đầy nước, nó kéo chùng xuống làm dây chuyển động và vị trí của máng nước cũng chuyển rời khỏi thác nước. Lúc đó, máng nước sẽ bị nghiêng, nước chảy hết ra ngoài. Khi máng nước đã hết nước, trọng lượng hòn đá ở đầu dây đằng kia lại kéo dây chùng xuống và làm sợi dây chuyển động kéo máng nước trở về vị trí cũ (ngay dòng thác). Chu kỳ dao động tiếp diễn mãi, nếu dòng thác không ngừng chảy. Điều quan trọng là phải sắp đặt sao cho vị trí của máng nước và trọng lượng hòn đá thật hợp lý để dao động tiếp tục.
Dọc theo hai bên sợi dây dài sẽ được cặp song song hai thanh tre dài để nó cùng chuyển động. Và, trên mỗi thành tre lại được treo nhiều thanh tre đặc ruột hoặc thanh gỗ đặt nằm ngang. Thanh này được treo bằng hai sợi dây, một sợi mắc vào màn tre cố định, một dây mắc vào thanh tre dài cùng dao động theo sợi dây dài. Xen giữa là một dàn tre cố định có treo nhiều ống nứa đã được khoét gọt kỹ lưỡng, có độ cao thấp khác nhau, được đặt thẳng đứng. Dây dao động làm cho thanh nằm ngang gõ vào những ống đàn, tạo thành hàng âm thanh.
Mỗi ống nứa là một âm, cả dàn là sự cộng hưởng của nhiều cung bậc. Với một dòng nước chảy đều đặn vào máng (ngày nay người ta có thể dùng máy bơm đưa dòng nước vào máng thay cho dòng nước từ con suối, con thác), âm thanh Cooang-tac điểm nhặt khoan thai, dàn trải, như một bản nhạc với nhiều bè khi thì đối đáp nhau, khi thì đuổi theo nhau, khi chồng lên nhau… khi hối hả, khẩn trương, dồn dập… Để rồi, âm thanh của Cooang-tac chính là tiếng giục giã người Xê-đăng lên nương, lên rẫy, cũng là tiếng gọi ấm áp, thân thương của nước, của núi rừng gọi người về đoàn tụ…
Ai yêu quê hương, đất nước mình, đồng bào mình, một lần ghé qua Bảo tàng, hãy dừng lại chiêm ngưỡng và lắng nghe thanh âm tiếng đàn Cooang-tac.
Bài và ảnh: Tân Tân
