Cần thận trọng, triển khai bài bản, khoa học

Dự án xây dựng vùng sản xuất nông nghiệp tập trung của Công ty TNHH Sơn Trường được thành phố và nhiều địa phương quan tâm, tạo điều kiện, coi như bước đột phá, tạo mô hình phát triển nông nghiệp theo

Dự án xây dựng vùng sản xuất nông nghiệp tập trung của Công ty TNHH Sơn Trường được thành phố và nhiều địa phương quan tâm, tạo điều kiện, coi như bước đột phá, tạo mô hình phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp. Tuy nhiên, sau 1 vụ sản xuất trên gần 500 ha đất thuê của nông dân, dự án bộc lộ những mặt hạn chế. Nhiều nhà khoa học thuộc ngành nông nghiệp và chính quyền các địa phương đang triển khai dự án cho rằng, công ty cần rút kinh nghiệm để có những bước đi phù hợp, thuyết phục hơn.

Bài học từ việc doanh nghiệp đơn phương phá vỡ hợp đồng ở xã Khởi Nghĩa

5 năm và 3 tháng

Ngày 3-6 vừa qua UBND huyện Tiên Lãng tổ chức cuộc họp nghe UBND xã Khởi Nghĩa, Công ty TNHH Sơn Trường và tổ công tác đặc biệt của huyện đề xuất biện pháp giải quyết việc doanh nghiệp này đơn phương phá vỡ hợp đồng, thuê đất với trả lại đất cho nông dân ở xã Khởi Nghĩa. Lý do Công ty Sơn Trường đưa ra là chất đất ở đây quá sình lầy, khó cơ giới hóa.

Sau khi thuê đất, Công ty TNHH Sơn Trường đưa máy móc vào san mặt bằng, phá hệ thống bờ thửa, khoang vùng sản xuất tại xã Khởi Nghĩa (Tiên Lãng),

Chủ tịch UBND xã Khởi Nghĩa Nguyễn Văn Bích cho biết: “1/3 diện tích đất nông nghiệp của xã hiện bỏ hoang, không trồng cấy gì. Nông dân tiếc lắm nhưng không biết làm thế nào khi phần lớn diện tích đã cho Công ty Sơn Trường thuê theo hợp đồng ký kết 5 năm. Tiền thuê đất vụ chiêm- xuân 2010 bà con đã nhận. Doanh nghiệp làm dở dang, rồi bỏ đấy. Nay hệ thống thủy lợi bị phá vỡ, bà con có nhân lại đất cũng không biết làm sao để sản xuất tiếp. Nhớ thời điểm tháng 11- 2009, nông dân Khởi Nghĩa hồ hởi cho doanh nghiệp thuê đất với giá khá cao: 125 kg thóc/ vụ. Chẳng phải sản xuất nông nghiệp mà một vụ cho thuê đất, bà con vẫn có thu nhập, gấp 2-3 lần gieo cấy lúa thông thường. Khởi Nghĩa có 1110 hộ dân thuộc 9/10 thôn cho Công ty Sơn Trường thuê 105,7 ha đất. Rồi công ty nhộn nhịp tổ chức đại hội nông trang với 35 nông dân cho thuê đất trở thành nông trang viên. Sau đó, đầu vụ chiêm- xuân 2010, công ty ồ ạt đưa máy móc vào san mặt bằng, phá hệ thống bờ thửa và triển khai đào rãnh kênh mương chằng chịt; quy hoạch một số vùng để cấy lúa, trồng rau. Vậy mà chỉ 3 tháng sau, ngày 26-2, công ty có văn bản gửi xã yêu cầu được trả lại 39,2 ha đất đã thuê thuộc thôn Ninh Duy với lý do không thể quy hoạch thành vùng rau chuyên canh. Trong khi người dân và chính quyền xã Khởi Nghĩa chưa hết ngạc nhiên, lúng túng thì ngày 10-3, công ty tiếp tục có công văn gửi xã và huyện xin trả toàn bộ 104 ha đất thuê của nông dân với lý do 100% diện tích đất sình lầy, khó khăn về thuỷ lợi hóa và cơ giới hóa. Rồi 10 ngày sau, công ty gửi thư thông báo việc trả đất đến từng hộ, yêu cầu vụ mùa năm 2010, nông dân chủ động có kế hoạch sản xuất tiếp. Điều đáng lo ngại hơn cả là ngay sau khi ký hợp đồng cho thuê đất trong 5 năm, phần lớn nông dân trong xã chuyển sang làm nghề khác nên việc công ty trả lại đất sau chưa đầy 1 vụ sản xuất khiến bà con lúng túng. Vụ chiêm- xuân này, đất bỏ hoang, gần 5000 khẩu ở 9/10 thôn đã cho thuê đất không có lương thực. Nếu chưa kịp tổ chức sản xuất lại ngay trong vụ mùa tới đây thì không ít hộ sẽ rơi vào hoàn cảnh rất khó khăn”.

Vì dân và bảo đảm an sinh xã hội

Tại cuộc họp ngày 3-6 do UBND huyện Tiên Lãng tổ chức, cả hai phía là xã Khởi Nghĩa và Công ty TNHH Sơn Trường vẫn chưa tìm được tiếng nói chung. Theo tính toán của xã Khởi Nghĩa, để khôi phục sản xuất ngay trong vụ mùa, địa phương phải bỏ kinh phí khoảng 2,6 tỷ đồng cho việc san lấp mặt ruộng, đào kênh, đắp bờ nội vùng, xây dựng cầu cống nội vùng, chia lại ruộng đất, dọn cỏ, làm đất, đo vẽ bản đồ quy hoạch vùng sản xuất…Trong khi đó, theo ông Tạ Quyết Thắng, Tổng giám đốc Công ty TNHH Sơn Trường, tư tưởng nhất quán của doanh nghiệp là không để người dân bị thiệt bất cứ khoản nào, sẵn sàng bồi thường cho người dân và ông cũng cho rằng trên thực tế nông dân “chưa thiệt hại gì”. Do vâỵ, tại cuộc họp này, con số mà ông Thắng đưa ra việc hỗ trợ cho UBND xã chia lại đất là 154 triệu đồng và hỗ trợ nông dân 60 nghìn đồng/ sào, quá thấp so với tính toán của xã Khởi Nghĩa và tổ công tác của huyện. Chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng Nguyễn Văn Hiền đưa ra giải pháp giải quyết tình thế; yêu cầu các phòng, ban và UBND xã Khởi Nghĩa dồn sức khắc phục hậu quả và bằng mọi biện pháp đưa diện tích doanh nghiệp trả lại vào sản xuất trong vụ mùa. Chủ tịch UBND huyện yêu cầu hoàn thành 3 công việc chính trước ngày 20-6 gồm chia lại ruộng, làm đất và đắp hệ thống bờ tạo thủy lợi cho sản xuất. Toàn bộ kinh phí cho việc này UBND huyện sẽ hỗ trợ xã, doanh nghiệp cũng phải hỗ trợ một phần. Những việc khác xã và doanh nghiệp sẽ bàn bạc sau. Như vậy, vì nông dân, bảo đảm an sinh xã hội, huyện Tiên Lãng nhận khó khăn về mình dồn sức khắc phục hậu quả sự cố doanh nghiệp đơn phương phá vỡ hợp đồng thuê đất với dân.

Cánh đồng thôn Duy Ninh (Khởi Nghĩa) cỏ mọc cao, hệ thống thủy lợi bị phá vỡ.

Bí thư Đảng ủy xã Khởi Nghĩa Nguyễn Văn Dim cho rằng, để giải quyết hậu quả xã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Điều địa phương lo nhất là sau sự cố này, người dân mất niềm tin vào chính quyền địa phương và doanh nghiệp, những cách làm mới, đột phá trong sản xuất nông nghiệp. Trước đây, để thực hiện chủ trương đưa doanh nghiệp vào liên kết với nông dân của huyện, chính quyền xã Khởi Nghĩa đã tạo điều kiện cao nhất cho Công ty Sơn Trường. Cán bộ xã đưa cán bộ của doanh nghiệp đi khảo sát đồng đất nhiều lần, đến khi doanh nghiệp chấp nhận thuê đất, địa phương tổ chức họp dân 4 lần vận động bà con ủng hộ mô hình mới. Thậm chí có 12 hộ dân không đồng ý cho thuê ruộng, xã phải dồn điền, đổi thửa cho các hộ này vào những diện tích đất tốt ở đồng cao. Bây giờ doanh nghiệp trả đất, nếu chia lại như hiện trạng ban đầu thì 12 hộ dân đã nhận đất ở chỗ khác chưa biết giải quyết ra sao? Vụ việc ở Khởi Nghĩa là bài học cần rút kinh nghiệm không chỉ ở Tiên Lãng mà còn với nhiều địa phương khác.

Bước đầu hình thành vùng sản xuất hàng hoá
Tại xã Trấn Dương (Vĩnh Bảo), cánh đồng chuyên trồng đậu côve 10 ha được phủ màn lưới tránh sâu bệnh. Cạnh đó là 55 ha chuyên trồng cà chua  phủ bạt chuyên dụng đang thu hoạch rộ. Ông Nguyễn Văn Máp, Giám đốc nông trang Trấn Dương cho biết: “Công ty TNHH Sơn Trường thuê của nông dân xã 151, 2 ha đất nông nghiệp, đầu tư kinh phí lớn để quy vùng sản xuất nông sản hàng hoá, xây dựng hệ thống thuỷ lợi riêng để dễ dàng điều chỉnh nước phục vụ trồng màu trong khi cả vùng chung quanh người dân vẫn cấy lúa bình thường. Hiện nay, công ty cấy luá bằng phương pháp gieo sạ trên 55 ha, quy hai vùng cấy lúa hàng hóa lớn, trồng đậu côve, cà chua. Hằng ngày, 70 nông trang viên và hàng trăm lao động làm thuê cho nông trang thu hoạch hàng chục tấn sản phẩm chuyển về khu vực nhà kho để cuối ngày doanh nghiệp cho xe về thu sản phẩm”.
Ông Nguyễn Văn Sông, Phó chủ tịch UBND xã Tam Đa (Vĩnh Bảo) cho biết: “Công ty TNHH Sơn Trường thuê của nông dân xã 61,4 ha tại 5 thôn. Sau đó, doanh nghiệp trồng khoai tây trên 60% diện tích đất, 20% cấy lúa bằng phương pháp gieo sạ và 20% diện tích trồng rau muống, sắn dây, đu đủ, rau gia vị các loại. Tại các vùng này, công ty  đưa máy móc vào cơ giới hoá đồng bộ, quy vùng sản xuất hàng hóa, sử dụng màng phủ nông nghiệp, thu hoạch sản phẩm tập trung”.
Đến nay, Công ty TNHH Sơn Trường đã thuê của nông dân hơn 470 ha đất, thuộc các xã An Tiến (An Lão), Cổ Am, Vĩnh Tiến, Tam Đa, Trấn Dương (Vĩnh Bảo), Khởi Nghĩa (Tiên Lãng). Diện tích này của 5431 hộ dân. Trong đó, diện tích đất thuê nhiều nhất là ở xã Trấn Dương (Vĩnh Bảo) với 151 ha. Phần lớn diện tích thuê tại Vĩnh Bảo và An Lão được đưa vào quy hoạch vùng sản xuất rau màu.
Một số băn khoăn
Phó chủ tịch UBND xã Trấn Dương (Vĩnh Bảo) Trần Quốc Tịch cho biết: “Nhìn về hình thức, bước đầu công ty thành công trong việc xây dựng vùng sản xuất rau màu tập trung có ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào diện tích thuê của nông dân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, do là mô hình mới nên cả địa phương và nông dân vừa mừng, vừa lo. Công ty thuê đất của nông dân trong 5 năm, với giá 250 kg thóc/sào/ năm với lý giải đó là 100% lợi tức của 2 vụ lúa/ năm. Hợp đồng đến năm 2014 hết hạn (thời điểm người dân hết quyền sử dụng đất giao theo Nghị định 64). Đông đảo người dân đồng ý cho doanh nghiệp thuê đất đồng nghĩa với việc họ tự khẳng định mình không còn nhu cầu cày cuốc trên diện tích đất đã cho thuê. Vậy, đến năm 2014 rất có thể những người nông này dân sẽ không được nhà nước tiếp tục giao đất sản xuất nông nghiệp đó nữa.   Chúng tôi cũng lo nông dân hoặc doanh nghiệp tự ý phá vỡ hợp đồng giữa chừng, điều vẫn hay xảy ra tại nhiều địa phương. Băn khoăn nữa là hình như doanh nghiệp mới chỉ chú trọng việc cơ giới hóa nông nghiệp bằng máy móc, trang thiết bị và những công nghệ cao trong quá trình sản xuất, chưa chú ý tạo cơ hội cho nông dân tiếp cận khoa học kỹ thuật cao. Hiện rất ít nông dân sau khi cho thuê đất trở thành nông trang viên hoặc làm việc cho doanh nghiệp, phần lớn họ bị tách ra khỏi đồng ruộng”.
Ông Nguyễn Văn Hạnh, Trưởng thôn Độ, xã Tam Đa (Vĩnh Bảo) cho biết: “1/5 diện tích đất nông nghiệp của cả thôn đã cho doanh nghiệp thuê. Tuy nhiên, do phương án sản xuất của doanh nghiệp chưa rõ ràng, lúc trồng cây này, lúc lại thay đổi cây khác, khi đắp ụ trồng sắn dây, khi lại ồ ạt đưa nước vào thả rau muống. Đầu ra tiêu thụ sản phẩm cũng chưa rõ ràng, dường như thiếu tính ổn định và bền vững. Điều đáng suy nghĩ là cả vùng sản xuất rộng lớn tới vài trăm ha mà doanh nghiệp chỉ có rất ít cán bộ kỹ thuật. Nông trang viên và cả lao động làm thuê dường như chưa làm hết khả năng vì thực ra họ không gắn trách nhiệm với sản phẩm”. Nỗi lo này của trưởng thôn Nguyễn Văn Hạnh không phải không có lý khi mà tại nhiều cuộc họp với Sở Nông nghiệp- PTNT, HĐND thành phố, ông Tạ Quyết Thắng, Giám đốc Công ty TNHH Sơn Trường thừa nhận doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong triển khai dự án, chưa xác định cây trồng phù hợp; thị trường tiêu thụ hạn hẹp. Đặc biệt, do chưa có nhà máy chế biến nên sản phẩm trôi nổi trên thị trường, giá bán thấp. Doanh nghiệp đầu tư kinh phí hàng chục tỷ đồng nhưng chưa thu được lợi nhuận. Tại vùng rau An Tiến (An Lão), dễ dàng bắt gặp  cảnh các nông trang viên bán rau ngay ven đường. Chị Nguyễn Thị Tuyên, nông trang viên của nông trang liên minh An Tiến nói: “Đây là rau của Công ty Sơn Trường trồng  tại An Tiến. Do khó khăn về thị trường tiêu thụ nên công ty yêu cầu các nông trang viên thu hoạch và tự tiêu thụ. Khá nhiều nông dân trong xã cũng mua rau của nông trang để bán cho người đi đường”. Như vậy, rõ ràng sản phẩm rau của Công ty Sơn Trường đang bế tắc về tiêu thụ.
                                                                                                                           (Xem từ số báo ra ngày 18-6-2010)

(Còn tiếp)

Nhóm PV  kinh tế