Nói về loại vi khuẩn này, TTƯT.BS. Nguyễn Võ Hinh, Nguyên Giám đốc Trung tâm PCSR-KST-CT Thừa Thiên Huế cho biết, thống kê mỗi năm ở Mỹ có khoảng 8.000 - 18.000 người phải nhập viện để điều trị do căn bệnh này. Trong điều kiện tự nhiên, vi khuẩn Legionella phát triển mạnh ở nhiệt độ 30 - 37oC, bị ngưng trệ hoạt động ở 40 - 45oC và chết ở nhiệt độ trên 70oC.
Đặc điểm của loại vi khuẩn này là sinh sống và phát triển trong các loài vi sinh vật khác như một dạng amíp. Màng sinh học cũng sẽ xuất hiện ở tất cả những ống dẫn nước, bồn chứa nước, nơi có điều kiện sinh sống và phát triển tối ưu cho vi khuẩn gây bệnh với điều kiện nhiệt độ thích hợp. Vi khuẩn Legionella hiện diện khá phổ biến ở các hồ nước tự nhiên, bùn và đất ẩm nhưng ít khi gây nguy hại cho con người.
Tuy vậy, con người có thể bị mắc bệnh khi hít hoặc nuốt phải những giọt nước nhỏ có chứa vi khuẩn Legionella. Trên cơ sở này, có thể xác định những nơi nguy hiểm có khả năng mang mầm bệnh vi khuẩn là vòi tắm trong khách sạn, bệnh viện, nhà dưỡng lão, hồ bơi, các trung tâm thể thao; phòng tắm ở những spa và nhà nghỉ, máy thông khí hay điều hòa không khí với màng lọc ẩm, tháp hạ nhiệt, những khu vực có vòi nước phun để làm mát hoặc tăng độ ẩm...
TTƯT.BS. Nguyễn Võ Hinh cho biết thêm, đối với bệnh Legionnaires là thể bệnh viêm phổi do nhiễm vi khuẩn Legionella gây nên hiện nay chưa có vắcxin phòng bệnh nên việc điều trị đòi hỏi bắt buộc phải sử dụng kháng sinh phù hợp sau khi được xét nghiệm chẩn đoán xác định.
Bệnh có thể có nguy cơ đe dọa đến sức khỏe kể cả tính mạng của cộng đồng người dân khi bị viêm phổi nặng nên để phòng bệnh Legionnaires do nhiễm vi khuẩn Legionella gây nên, chúng ta cần thiết kế ống dẫn nước và sử dụng các phụ kiện phù hợp như: chọn những vật liệu thích ứng, chọn đúng thủy lực cần thiết như: lắp đặt không quá cao, không có góc chết; chú ý những nơi nguy hiểm có khả năng mang mầm bệnh vi khuẩn đã nêu trên, không kết nối ống nước song song với nồi hơi, không có thu hồi nhiệt thông qua gia nhiệt sơ bộ. Đồng thời, nên duy tu bảo dưỡng và điều khiển hệ thống hoạt động thường xuyên, kiểm tra và vệ sinh nồi hơi định kỳ, kiểm tra xét nghiệm mức độ gây hại của vi khuẩn.
Ngoài ra cần xử lý hệ thống dẫn nước với chlorine dioxide, chất khử khuẩn mạnh không phụ thuộc vào độ pH; có thể phá hủy màng sinh học trong hệ thống ống nước để bảo vệ, ngăn ngừa hiện tượng tái nhiễm khuẩn với ưu điểm có hiệu quả kéo dài và ít ăn mòn hơn chlorine. Cũng có thể xử lý với ozone là chất khử khuẩn mạnh, đáng tin cậy trong việc loại bỏ màng sinh học, không có tồn dư nhưng có nhược điểm là không có tác dụng hiệu quả kéo dài trong việc xử lý nước và thường được ứng dụng tốt trong tháp hạ nhiệt, màng lọc khí.