Các kỳ Đại hội tòan quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam
Kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua chín kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc. Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận những thắng lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất:
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại phố Quan Công-Ma Cao (Trung Quốc) từ ngày 27 đến ngày 31/3/1935. Dự Đại hội có 13 đại biểu thuộc các đảng bộ trong nước và tổ chức của Đảng hoạt động ở nước ngoài. Đại hội đã nêu ra nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng trong thời gian trước mắt là: Củng cố và phát triển Đảng, tranh thủ quần chúng rộng rãi, chống chiến tranh đế quốc.
Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị của Đảng, các Nghị quyết về vận động công nhân, vận động nông dân, vận động thanh niên, phụ nữ, binh lính, về Mặt trận phản đế, về đội tự vệ, về các dân tộc ít người... và Điều lệ của Đảng, điều lệ của các tổ chức quần chúng của Đảng.
Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Trung ương Đảng gồm 13 đồng chí. Ban Thường vụ có 5 đồng chí. Đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Thư ký (Tổng Bí thư). Ban chấp hành Trung ương Đảng đã cử đồng chí Nguyễn Ái Quốc làm đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh Quốc tế Cộng sản.
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng (Đại hội I) là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thắng lợi căn bản của cuộc đấu tranh gìn giữ và khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ cơ sở đến Trung ương. Đây là một điều kiện cơ bản và cần thiết để Đảng bước vào một thời kỳ đấu tranh mới.
Các Hội nghị Trung ương trong thời gian từ Đại hội I đến trước Đại hội II được tiến hành lần lượt vào: 7/1936; 13 và 14/3/1937; 3 đến 5/9/1937; 29 và 30/3/1938; 11/1939; 5/1941; 9/3/1945; 13/8/1945; 18 và 19/12/1946; 1/1948; 1/1949; 1/1950.
Các Tổng Bí thư của Đảng thời kỳ này: Lê Hồng Phong (tháng 3/1935/1936); Hà Huy Tập (1936/1938); Nguyễn Văn Cừ (3/1938 đến 1/1940); Trường Chinh (tháng 5/1941 đến 2/1951)
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ hai:
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (Đại hội II) họp từ ngày 11 đến ngày 19/2/1951, tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang.
Tham dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho 766.349 đảng viên trong toàn Đảng. Đến dự Đại hội còn có đại biểu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Thái Lan.
Đại hội đã nghe đồng chí Hồ Chí Minh trình bày Báo cáo Chính trị và đã nghiên cứu, thảo luận Báo cáo Chính trị của Người.
Các Báo cáo khác tại Đại hội bao gồm: Báo cáo Bàn về Cách mạng Việt Nam của đồng chí Trường Chinh, Báo cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng của đồng chí Lê Văn Lương và Báo cáo bổ sung về Mặt trận Dân tộc Thống nhất, Chính quyền Dân chủ Nhân dân, Quân đội Nhân dân, Kinh tế tài chính và về Văn nghệ. Ngoài ra còn có một số tham luận khác.
Báo cáo Chính trị khẳng định những thắng lợi to lớn của Cách mạng, kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng và những bài học kinh nghiệm của các thời kỳ vận động Cách mạng của Đảng.
Báo cáo nêu lên khẩu hiệu chính là tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hoà bình thế giới.
Báo cáo cũng nêu lên hai nhiệm vụ chính trong nhiệm vụ mới là: Đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn; Tổ chức Đảng Lao động Việt Nam.
Sau khi thảo luận Báo cáo chính trị của đồng chí Hồ Chí Minh, Đại hội đã thông qua Nghị quyết khẳng định: Đường lối đoàn kết toàn dân, kháng chiến trường kỳ giành độc lập, dân chủ là hoàn toàn đúng, Đảng cần kiện toàn thêm sự lãnh đạo kháng chiến, tập trung lực lượng lớn hơn nữa để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn; phải xây dựng Đảng Lao động Việt Nam có Chính cương và Điều lệ thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam và sẽ xây dựng những tổ chức thích hợp với hoàn cảnh Cao Miên và Lào.
Báo cáo 'Bàn về Cách mạng Việt Nam' của đồng chí Trường Chinh đã phân tích tính chất của xã hội Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp.
Báo cáo nêu ra 12 chính sách của Đảng trong Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Đại hội đã quyết nghị đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên gọi mới là Đảng Lao động Việt Nam, thông qua Chính cương, Tuyên ngôn và Điều lệ mới của Đảng. Điều lệ mới của Đảng gồm có phần mục đích và tôn chỉ, 13 chương và 71 điều. Điều lệ xác định rõ mục đích của Đảng là phấn đấu để 'phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam'. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng gồm 19 Ủy viên chính thức và 10 Ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã cử ra Bộ Chính trị gồm 7 Ủy viên chính thức và một Ủy viên dự khuyết. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch Đảng. Đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư. Đây là lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương của Đảng được bầu hợp thức trong một Đại hội có đầy đủ đại biểu toàn quốc.
Các Hội nghị Trung ương từ Đại hội II đến trước Đại hội III theo thời gian lần lượt là: 3/1951; 9 và 10/1951; 5/1952; 25 đến 30/1/1953; 11/1953; 15 đến 18/7/1954; 3/1955; 8/1955; 8/1956; 12/1956; 3/1957; 12/1957; 12/1958; 1/1959; 4/1959; 12/1959; 7/1960.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ ba:
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng (Đại hội III) diễn ra giữa lúc công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế ở miền Bắc đang giành được những kết quả to lớn và Cách mạng ở miền Nam đã tiến lên một bước nhảy vọt.
Đại hội họp tại Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 12/9/1960.
Tham dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước, trong đó 50% số đại biểu là các đảng viên đã tham gia Cách mạng từ khi Đảng còn hoạt động bí mật.
Tất cả các đại biểu đã trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược... Gần 20 đoàn đại biểu quốc tế đến dự Đại hội.
Đồng chí Hồ Chí Minh đọc lời khai mạc Đại hội. Người nêu khái quát nhiệm vụ mới của Cách mạng Việt Nam và nói rõ: 'Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà'. Đồng chí Lê Duẩn đọc Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội đã thông qua nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, thông qua Điều lệ sửa đổi của Đảng. Bản Điều lệ của Đảng gồm có phần cương lĩnh chung, 12 chương với 62 điều.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng gồm 47 Ủy viên chính thức và 31 Ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 11 Ủy viên chính thức và hai Ủy viên dự khuyết. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng và đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Các Hội nghị Trung ương từ sau Đại hội III đến trước Đại hội IV diễn ra theo thứ tự thời gian: 9/1960; 11/1960; 1/1961; 4/1961; 7/1961; 30/11 đến 2/12/1961; 6/1962, 5/1963; 12/1963; 2/1964; 15 đến 27/3/1965; 12/1965; 1/1967; 1/1968; 28 đến 31/8/1968; 5/1969; 2/9/1969 (kỳ họp khẩn cấp ngay sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời); 1/1970; 1/1971; 4/1972; 7/1973; 12/1973; 12/1974; 9/1975 (Hội nghị đề ra nhiệm vụ hoàn thành thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội); 24/9 đến 24/10/1976.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ tư
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ tư của Đảng (Đại hội IV) họp trong bối cảnh nhân dân ta đã vượt qua những thử thách, giành được thắng lợi vẻ vang. Tổ quốc Việt Nam đã thống nhất, Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất, thực hiện chiến lược Cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội IV họp từ ngày 14 đến ngày 20/12/1976, tại thủ đô Hà Nội. 1.008 đại biểu thay mặt hơn 1.550.000 đảng viên của 38 Đảng bộ tỉnh, thành và các cơ quan trực thuộc Trung ương trong cả nước. Đến dự Đại hội có 29 đoàn đại biểu các Đảng Cộng sản, đảng Công nhân của phong trào giải phóng dân tộc và các tổ chức quốc tế. Đồng chí Lê Duẩn thay mặt Ban Chấp hành Trung ương trình bày Báo cáo Chính trị. Đại hội đã tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đây là Đại hội thống nhất Tổ quốc, Đại hội đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đổi tên đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Điều lệ mới của Đảng gồm 11 chương và 59 điều. Đại hội đặt lại chức Tổng Bí thư thay chức Bí thư thứ nhất. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 101 Ủy viên chính thức, 32 Ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 14 Ủy viên chính thức và 3 Ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư. Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương từ sau Đại hội IV đến trước Đại hội V diễn ra lần lượt vào: 20/12/1976; cuối tháng 6 đầu tháng 7/1977; 1/1978; 7/1978; 12/1978; 8/1979; 3/1980; 9/1980; 12/1980; 10/1981; 12/1981; 3/1982.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ năm:
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ năm của Đảng (Đại hội V), họp từ ngày 27 đến ngày 31/3/1982, tại Thủ đô Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1.033 đại biểu, thay mặt hơn 1.727.000 đảng viên thuộc 35.146 đảng bộ cơ sở. Dự Đại hội có 47 đoàn đại biểu quốc tế.
Đồng chí Lê Duẩn trình bày Báo cáo Chính trị trước Đại hội.
Đại hội đã khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối Cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Đại hội IV.
Đại hội đã thông qua Điều lệ (sửa đổi) của Đảng và bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 116 Ủy viên chính thức và 36 Ủy viên dự khuyết.Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 Ủy viên chính thức. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư.
Đại hội đánh dấu một sự chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh 'Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân'.
Các kỳ họp Hội nghị Trung ương từ sau Đại hội V đến trước Đại hội VI theo thứ tự thời gian: 5/1982; 7/1982; 12/1982; 6/1983; 12/1983; 7/1984; 12/1984; 6/1985 (Hội nghị TW 8 quyết định xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp); 12/1985; 5/1986; 14/7/1986 (Ban Chấp hành Trung ương họp phiên đặc biệt - Đồng chí Lê Duẩn từ trần ngày 10-7/1986. Đồng chí Trường Chinh được bầu giữ chức Tổng Bí thư thay đồng chí Lê Duẩn); 17/11/1986.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ sáu
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ sáu của Đảng (Đại hội VI) họp tại Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu, thay mặt gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn Đảng. Có 32 đoàn đại biểu quốc tế đến dự. Đồng chí Trường-Chinh đọc báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội 'khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học'.
Đại hội quyết định bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể trong Điều lệ Đảng cho phù hợp với tình hình mới; và bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa VI, gồm 124 Ủy viên chính thức và 49 Ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 13 Ủy viên chính thức và một Ủy viên dự khuyết.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Các đồng chí Trường-Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được bầu làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội VI là Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới của Đảng.
Các Hội nghị Trung ương từ sau Đại hội VI đến trước Đại hội VII theo thứ tự thời gian: 18/12/1986; 4/1987; 8/1987, 12/1987; 6/1988; 3/1989; 15 đến 24-8/1989; 4/1990; 8/1990; 11/1990; 1/1991; 5/1991.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ bảy:
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ bảy của Đảng (Đại hội VII) được tiến hành trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp. Đại hội họp tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội từ ngày 24 đến ngày 27-6/1991.
Dự Đại hội có 1.176 đại biểu đại diện cho hơn hai triệu đảng viên trong cả nước. Đến dự Đại hội có đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, Đảng Cộng sản Cuba, Đảng Cộng sản Nhật Bản... Đồng chí Nguyễn Văn Linh thay mặt Ban Chấp hành Trung ương trình bày Báo cáo Chính trị.
Đại hội tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, đề ra phương hướng, mục tiêu và các nhiệm vụ chủ yếu cho kế hoạch năm năm tới.
Đại hội thông qua Cương lĩnh, vạch ra những quan niệm và phương hướng cơ bản về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thông qua chiến lược ổn định và phát triển kinh tế, xã hội đến năm 2000. Khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng; tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện Việt Nam. Đại hội VII đã bước đầu nêu lên mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta phấn đấu xây dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Đại hội đã thông qua Điều lệ của Đảng (sửa đổi).
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 146 Ủy viên.
Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã bầu Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 13 Ủy viên.
Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội VII là 'Đại hội Trí tuệ - Đổi mới, Dân chủ - Kỷ cương - Đoàn kết'.
Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương từ sau Đại hội VII đến trước Đại hội VIII, theo thời gian: 27/6/1991; từ 21/11 đến 4/12/1991; 18 đến 29/6/1992; 10 đến 14/1/1993; 3 đến 10-6/1993; 24/11 đến 1/12/1993; 1/1994 (Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ tổng kết những thực tiễn của sự nghiệp Đổi mới từ Đại hội VI, khẳng định kiên trì đổi mới đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội... giữ vững ổn định chính trị. Hội nghị này đã bổ sung 20 Ủy viên Trung ương); 25 đến 30/7/1994; 16 đến 23/1/1995; 6 đến 14/11/1995.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ tám:
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ tám của Đảng (Đại hội VIII) họp tại Hà Nội từ ngày 28/6 đến 1/7/1996.
Tham dự Đại hội có 1.196 đại biểu đại diện cho 2 triệu đảng viên trong toàn Đảng. Đại hội đón hơn 40 đoàn quốc tế đến dự, trong đó có các đoàn đại biểu Trung Quốc, Lào, Campuchia... Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười thay mặt Ban Chấp hành Trung ương trình bày Báo cáo Chính trị với Đại hội.
Đại hội đã tổng kết thành tựu 10 năm đổi mới, Đại hội đã chỉ rõ: Công cuộc đổi mới trong 10 năm đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã được hoàn thành về cơ bản.
Đại hội VIII nêu lên những bài học chủ yếu và nêu mục tiêu đến năm 2000 và năm 2020; phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 1996-2000 là: Tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ; vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000: Tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao, bền vững, đi đôi với việc giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau.
Đại hội đã thông qua Điều lệ (sửa đổi) của Đảng.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 170 đồng chí. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã bầu Bộ Chính trị gồm 19 đồng chí. Đồng chí Đỗ Mười được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công được bầu làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương từ sau Đại hội VIII đến trước Đại hội IX, theo thứ tự thời gian: 1-7/1996; 16 đến 24/12/1996; 9 đến 18-6/1997; 23 đến 29/12/1997 (Hội nghị lần thứ 4 - bầu đồng chí Lê Khả Phiêu giữ chức Tổng Bí thư của Đảng, thay đồng chí Đỗ Mười); 6 đến 16-7/1998; 13 đến 17/10/1998 (HNTW 6 lần 1); 25/1 đến 2/2/1999 (HNTW 6 lần 2); 9-8 đến 16-8/1999; 4 đến 11/11/1999; 10 đến 19-4/2000; 26-6 đến 4/7/2000; 6 đến 16/1/2001.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ chín:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ chín của Đảng (Đại hội IX) của Đảng họp tại Hà Nội từ 19/4 đến 22/4/2001.
Đại hội IX của Đảng là Đại hội của Trí tuệ, Dân chủ, Đoàn kết, Đổi mới, thể hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của cả dân tộc trong thời điểm trọng đại bước vào thế kỷ mới.
Về dự Đại hội có 1.168 đại biểu thay mặt cho hơn 2,4 triệu đảng viên của 72 Đảng bộ trực thuộc Trung ương, 80 khách mời và 35 đoàn đại biểu quốc tế, trong đó có một đoàn dự với tư cách quan sát viên. Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị BCH T.Ư khóa VIII đọc diễn văn khai mạc. Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đọc báo cáo của BCH TƯ khóa VIII về các văn kiện trình Đại hội IX: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đã thông qua Nghị quyết Đại hội IX. Nghị quyết Đại hội quyết nghị thông qua Báo cáo Chính trị, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010 và Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2001-2005 của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII trình Đại hội. Đại hội thông qua toàn văn Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã được bổ sung, sửa đổi. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 150 Ủy viên. Trong phiên họp đầu tiên của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã bầu Bộ Chính trị gồm 15 đồng chí. Đồng chí Nông Đức Mạnh được Ban Chấp hành Trung ương khóa IX bầu làm Tổng Bí thư. Ban Bí thư Trung ương Đảng gồm 9 đồng chí trong đó có 5 đồng chí là Ủy viên Bộ Chính trị do Bộ Chính trị phân công tham gia Ban Bí thư và 4 đồng chí do Ban Chấp hành Trung ương khóa IX bầu. Tại phiên họp đầu tiên, Ban Chấp hành Trung ương bầu 9 đồng chí làm thành viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương, trong đó có 4 đồng chí là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Tại phiên bế mạc Đại hội, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã đọc bài diễn văn quan trọng, diễn văn nhấn mạnh: 'Kết quả Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta có ý nghĩa to lớn, mở ra thời kỳ mới trong sự phát triển của đất nước những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Kết quả đó khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta vững bước vào một thời kỳ mới-thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh'.
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phát huy truyền thống vẻ vang và sức mạnh đoàn kết của dân tộc, của toàn Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm bắt thời cơ, vượt qua thử thách, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước tiến lên trong thế kỷ XXI.Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương từ sau Đại hội IX đến nay theo thứ tự thời gian: 9 đến 10/6/2001; 13/8 đến 22/8/2001; 5 đến 13/11/2001; 18/2 đến 3/3/2002; 4 đến 15/7/2002; 7 đến 9/11/2002 và 13/1 đến 21/1/2003; 2/7 đến 12/7/2003; 5/1 đến 12/1/2004; 5/7 đến 10/7/2004.
Theo TTXVN