Các đơn vị, doanh nghiệp sản xuất rau an toàn vừa làm, vừa “nghe” quy hoạch
Thành phố hiện có 56,8 ha đăng ký đủ điều kiện sản xuất rau an toàn và công bố chất lượng sản phẩm theo quy định, chiếm khoảng ¼ diện tích sản xuất rau theo quy trình an toàn. Diện tích này hiện tập trung tại 4 đơn vị, doanh nghiệp là HTX nông nghiệp An Thọ (An Lão), Trung tâm giống và phát triển nông lâm nghiệp công nghệ cao, Công ty TNHH nuôi trồng và chế biến thực phẩm Phú Cường và Công ty cổ phần chế biến nông nghiệp và chế biến thực phẩm Nam Triệu. 4 đơn vị này đang gặp những khó khăn, vướng mắc khiến việc mở rộng sản xuất không như mong đợi.
Thiếu quy hoạch vùng
Theo ông Bùi Cảnh Đức, Phó giám đốc Trung tâm giống và phát triển nông lâm nghiệp công nghệ cao Hải Phòng, một trong những khó khăn để mở rộng sản xuất rau an toàn của các doanh nghiệp, HTX hiện nay là chưa có quy hoạch vùng sản xuất lớn, tập trung. Phần lớn các doanh nghiệp, đơn vị diện tích sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ và bị phân tán. Chẳng hạn như Trung tâm giống và phát triển nông lâm nghiệp công nghệ cao Hải Phòng, có 3- 4 điểm sản xuất rau an toàn nhưng mỗi điểm diện tích chỉ vài nghìn m2. Ngoài 8000 m2 nhà kính canh tác nông nghiệp công nghệ cao và 5000 m2 nhà lưới đơn giản ổn định tại trung tâm, diện tích 12 nghìn m2 canh tác ngoài trời đơn vị phải tổ chức phối hợp sản xuất tại nhiều xã. Do vậy, việc sản xuất, quản lý chất lượng, sơ chế sản phẩm rất khó đồng bộ theo một quy trình.
Ông Nguyễn Hồng Bồng, Chủ tịch HĐND xã An Thọ (An Lão) cũng bày tỏ băn khoăn: “Việc chưa có quy hoạch chi tiết các vùng sản xuất rau an toàn khiến HTX nông nghiệp An Thọ vừa làm vừa lo bị thay đổi quy hoạch. Xã hiện có 10 ha sản xuất rau an toàn, đồng thời là 1 trong 3 vùng thuộc dự án “sản xuất rau an toàn vệ sinh thực phẩm Hải Phòng” do Trung tâm khuyến nông Hải Phòng là chủ đầu tư nhưng chưa yên tâm vì bị các dự án phát triển công nghiệp, đô thị nào vào lại lấy đất vào diện tích trồng rau. Thực tế là hai vùng rau Hồng Phong (An Dương) và Thủy Đường (Thuỷ Nguyên) thuộc dự án rơi vào tình trạng này”.
Cơ sở hạ tầng chắp vá
Vùng sản xuất rau an toàn của các đơn vị, doanh nghiệp chưa có sự đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng vùng rau An Thọ (An Lão) thực hiện dàn trải, nhỏ giọt trong rất nhiều năm. Một số hạng mục là tận dụng, nâng cấp hệ thống cũ. Trung tâm giống và phát triển nông lâm nghhiệp công nghệ cao Hải Phòng là đơn vị có hệ thống cơ sở sản xuất rau an toàn khá đồng bộ lại có khó khăn trong đầu tư cơ sở hạ tầng những vùng liên kết sản xuất với nông dân, diện tích phân tán. Nhà sơ chế sản phẩm của trung tâm quy mô nhỏ, công suất chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Ông Trương Huy Khiêm, cán bộ Công ty cổ phần chế biến nông nghiệp và chế biến thực phẩm Nam Triệu cho biết: Công ty triển khai 30 ha trồng rau an toàn tại xã Dũng Tiến (Vĩnh Bảo). Mặc dù được thành phố tạo điều kiện về mặt bằng và cấp phép triển khai dự án nhưng doanh nghiệp lại thiếu vốn đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ. Một điều chưa thật hợp lý là trong khi hộ nông dân, HTX nông nghiệp sản xuất nhỏ lẻ được nhà nước hỗ trợ đầu tư về vốn, giống, một phần cơ sở hạ tầng thì doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn lại chưa được nhà nước quan tâm hỗ trợ đầu tư, phải tự túc toàn bộ các khoản chi phí. Việc khó khăn về vốn khiến cho quá trình đầu tư cơ sở hạ tầng tại vùng sản xuất chậm và chắp vá thiếu đồng bộ”.
Nan giải việc quản lý chất lượng, tiêu thụ sản phẩm
Vấn đề nan giải hiện nay của các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất rau an toàn là việc quản lý chất lượng sản phẩm, phòng trừ sâu bệnh trên rau an toàn. Hai doanh nghiệp là Công ty TNHH nuôi trồng và chế biến thực phẩm Phú Cường và Công ty cổ phần chế biến nông nghiệp và chế biến thực phẩm Nam Triệu đều cho rằng họ rất bị động trong việc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học để phun cho rau, bảo đảm quy trình chất lượng VietGAP. Nguyên nhân là do số lượng thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng theo tiêu chuẩn này chưa phong phú, nhiều loại thuốc sinh học không dễ tìm trên thị trường. Cán bộ của Trung tâm giống và phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp công nghệ cao Hải Phòng luôn đau đầu về việc nông dân tại những vùng ký hợp đồng sản xuất rau an toàn nhưng vẫn sử dụng thuốc BVTV tuỳ tiện. Khi vắng bóng cán bộ giám sát là họ phun thuốc cho rau theo thói quen, kinh nghiệm. Nhiều lần trung tâm không thu mua được rau tại những vùng này vì qua kiểm tra sản phẩm thấy còn dư lượng thuốc BVTV.
Điều HTX nông nghiệp An Thọ và các doanh nghiệp rau lo ngại nhất hiện nay vẫn là việc tiêu thụ sản phẩm, nhất là khi rau an toàn và rau thông thường vẫn khó phân biệt trên thị trường. Hiện 4 đơn vị trên chủ yếu mới dừng ở việc cung ứng rau an tòan cho các bếp ăn tập thể, trường học, khu công nghiệp, siêu thị. Trung tâm giống và phát triển nông lâm nghiệp công nghệ cao mạnh dạn xây dựng một số cửa hàng bán lẻ trên địa bàn thành phố nhưng lượng bán ra ít và khó mở rộng thị trường. Nguyên nhân là do thói quen người tiêu dùng chưa thay đổi, rau an tòan giá thường cao hơn rau thông thường nhưng người mua chưa thể phân biệt rau an tòan với rau thường nên chưa tin dùng…
Có thể nói, những khó khăn trên đang khiến các doanh nghiệp, đơn vị đi đầu sản xuất rau an toàn trên địa bàn thành phố sản xuất cầm chừng, cản trở việc mở rộng diện tích. Thành phố, ngành chức năng cần có giải pháp hỗ trợ, giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, khuyến khích họ đầu tư sản xuất rau an toàn theo hướng quy vùng trồng rau quy mô lớn./.
Hoàng Yên