Các điều kiện cần lấp đầy để Trung tâm tài chính Quốc tế vận hành, phát triển

Các điều kiện cần lấp đầy để Trung tâm tài chính Quốc tế vận hành, phát triển
Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, sự hình thành của Trung tâm tài chính quốc tế sẽ nâng cao vị thế quốc gia.

(PLVN) - Nghị quyết 222/2025/QH15 (NQ222) đã có những quy định khá cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho Trung tâm tài chính Quốc tế (IFC) tại Việt Nam hình thành và đi vào hoạt động. Tuy nhiên, các quy định trong Nghị quyết chỉ là định hướng, cần phải cụ thể hóa thành quy định pháp luật.

Hoàn chỉnh 7 trụ cột chính

Một IFC thành công là một hệ sinh thái phức hợp được xây dựng trên nhiều trụ cột/tiêu chí vững chắc, tương hỗ và cộng sinh với nhau. Cấu trúc các thành phần của một IFC chính là cách “hiện thực hóa” các tiêu chí/trụ cột, gồm bảy nhóm hạng mục: Khung pháp lý - thể chế; Độ sâu và tính đa dạng của thị trường tài chính; Dịch vụ phụ trợ; Nhân lực có trình độ, kiến thức chuyên sâu về tài chính - ngân hàng; Hạ tầng công nghệ - Fintech; Ưu đãi thuế; Vị trí địa lý và múi giờ. Việt Nam đã có những bước đi rất tích cực để xây dựng mô hình IFC nhưng trong bảy tiêu chí cơ bản vẫn còn một số khoảng trống phải lấp đầy.

Về khung pháp lý - thể chế, NQ 222 đã tạo ra một khung pháp lý khá hoàn hảo bằng cách cho phép các bên lựa chọn luật nước ngoài, thành lập các cơ quan độc lập và có cơ chế sandbox đột phá. Rào cản lớn nhất về một hệ thống pháp luật nội địa chưa tương thích đã được giải quyết. Chủ trương và định hướng về pháp lý đã được NQ 222/2025/QH15 khai thông. Tuy nhiên, để IFC tại Việt Nam có thể vận hành và phát triển, các chủ trương và định hướng pháp lý trên cần phải được cụ thể hóa hơn nữa. Nhiệm vụ này thuộc về Chính phủ và các Bộ chủ quản trong việc triển khai ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành.

 Trong Giai đoạn 1, TP Hồ Chí Minh sẽ phát triển thành Trung tâm “Quản lý Tài sản và Quỹ đầu tư”, là “Trung tâm chính” năng động.  
 Trong Giai đoạn 1, TP Hồ Chí Minh sẽ phát triển thành Trung tâm “Quản lý Tài sản và Quỹ đầu tư”, là “Trung tâm chính” năng động.  

Bên cạnh đó, NQ 222 đã cho phép đa dạng hóa sản phẩm. Tuy nhiên, độ sâu và thanh khoản của thị trường chưa đủ vì không thể tạo ra bằng một Nghị quyết mà phải là kết quả với sự tham gia của nhiều định chế tài chính lớn, nhiều công ty niêm yết chất lượng và một lượng lớn các nhà giao dịch. Thị trường Việt Nam hiện tại vẫn còn nông so với các trung tâm lớn và cần thời gian để bồi đắp.

Bên cạnh đó, tình trạng của trụ cột dịch vụ phụ trợ chưa đủ sự hiện diện quốc tế vì các chính sách trong NQ 222 mặc dù sẽ giúp mời gọi các nhà cung cấp dịch vụ quốc tế, tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, sự thiếu vắng các chi nhánh custodian của các công ty lớn như BNY Mellon, State Street và các hãng luật quốc tế lớn vẫn là một thực tế. Để các tổ chức này quyết định mở chi nhánh và đầu tư lớn vào Việt Nam thì họ cần thời gian để các tổ chức này thẩm định và tin tưởng vào sự ổn định của môi trường mới. Đồng thời, Chính phủ cần có các giải pháp để thu hút các chi nhánh custodian của các công ty lớn trên thế giới tham gia vào thị trường Việt Nam.

Về trụ cột nhân lực có năng lực, trình độ về tài chính – ngân hàng thì chúng ta chưa đủ về chất và lượng mặc dù chính sách để thu hút nhân tài (miễn thuế, visa dài hạn...) đã có và rất tốt. Nhưng đây mới chỉ là “phần ngọn” còn “phần gốc” là đội ngũ nhân sự trong nước vẫn thiếu các chuyên gia cấp cao về kế toán kiểm toán, ngân hàng đầu tư, quản trị rủi ro… Chính phủ cần chỉ đạo Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, các viện nghiên cứu… triển khai các lớp đào tạo cấp tốc, đồng thời có cơ chế thu hút các chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực tài chính – ngân hàng ở nước ngoài để khắc phục sự thiếu hụt trên.

Những bước chuyển cẩn trọng

Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, dân số trẻ, thâm nhập công nghệ nhanh, thị trường trái phiếu chính phủ và cổ phiếu đã có nền tảng. Hạ tầng công nghệ – Fintech dịch vụ ví điện tử, QR, P2P và ngân hàng số phát triển; cơ chế thử nghiệm (Sandbox) đã được Chính phủ chính thức hóa thông qua Nghị định 94/2025/NĐ-CP. Xét về dịch vụ phụ trợ - quản lý Tài sản (Asset Mgmt) chúng ta đã có số quỹ mở, ETF sẽ tăng nhanh; nhu cầu đầu tư dài hạn, tiết kiệm hưu trí ngày càng cao và NQ 222/2025 đã tạo ra một khung pháp lý đột phá, trong đó nền tảng về Fintech và thị trường vốn không còn là tiềm năng mà đã có bệ phóng pháp lý để bùng nổ.

  Cần phải biến các thủ tục ưu đãi trên giấy tờ thành hiện thực để thu hút nguồn nhân lực và  tạo ra một môi trường làm việc và đầu tư hấp dẫn 
  Cần phải biến các thủ tục ưu đãi trên giấy tờ thành hiện thực để thu hút nguồn nhân lực và  tạo ra một môi trường làm việc và đầu tư hấp dẫn 

Do vậy, thách thức của việc thành lập một IFC tại Việt Nam đã chuyển từ việc thiếu chính sách sang năng lực và tốc độ triển khai NQ 222 trong thực tế. Dựa trên nền tảng pháp lý vững chắc mà NQ 222 đã tạo ra, Việt Nam cần một lộ trình phát triển theo Giai đoạn, nên tập trung ngay vào những lĩnh vực có thể phát huy thế mạnh, cụ thể:

Trong Giai đoạn 1, Đà Nẵng sẽ trở thành “Trung tâm Fintech và Tài sản số” bởi lẽ, việc thử nghiệm những thứ hoàn toàn mới (như DeFi, tài sản số) trong một môi trường ít bị ảnh hưởng bởi các hệ thống tài chính truyền thống sẽ dễ dàng và linh hoạt hơn. Ngoài ra, môi trường sống tốt và chi phí hợp lý của Đà Nẵng cũng là lợi thế để thu hút các nhân tài công nghệ và startup quốc tế. Nếu đối chiếu căn cứ pháp lý trong NQ 222, chúng ta dễ nhận thấy, các điều khoản này mang tính đột phá và hướng tới các lĩnh vực mới nổi, rất phù hợp với một môi trường linh hoạt và ít bị ràng buộc bởi hệ thống cũ như Đà Nẵng.

Riêng trong Giai đoạn 1, TP Hồ Chí Minh sẽ phát triển thành Trung tâm “Quản lý Tài sản và Quỹ đầu tư”, là “Trung tâm chính” năng động. Bởi lẽ căn cứ vào thế mạnh thực tế thì TP Hồ Chí Minh là nơi duy nhất có Sở Giao dịch Chứng khoán lớn, có trụ sở của tất cả các ngân hàng, công ty chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu tư hàng đầu. Đây là một thực tế không thể thay đổi. Nếu đối chiếu với NQ 222/2025, các điều khoản sau đây, dù không ghi đích danh “TP Hồ Chí Minh” nhưng nội dung của của NQ 222 lại trực tiếp nhắm vào các thế mạnh và hệ sinh thái vốn chỉ có tại TP Hồ Chí Minh thông qua việc thiết kế một bộ chính sách dường như dành riêng cho hệ sinh thái này.

Đơn cử như các quy định về Thành viên tại Điều 10 đã trực tiếp nhắc đến các định chế đang có trụ sở và hoạt động mạnh mẽ nhất tại TP Hồ Chí Minh và các chính sách chuyên biệt về hoạt động ngân hàng trong Điều 17, vốn là hoạt động chính, quan trọng của ngành tài chính Thành phố...

Như vậy, thách thức trong giai đoạn 1 sẽ là thách thức về hoàn thiện khung pháp lý chi tiết và năng lực giám sát vì NQ 222 là luật khung do vậy cần các Nghị định và Thông tư chi tiết về DeFi, stablecoin... Cạnh đó, các cơ quan giám sát cần có đội ngũ đủ trình độ để theo kịp thị trường, do đó giải pháp là cần thành lập Tổ công tác đặc biệt của Thủ tướng để đôn đốc việc ban hành văn bản hướng dẫn. Áp dụng cơ chế tại điểm b khoản 2 Điều 21 để thuê chuyên gia quốc tế làm việc cho Cơ quan giám sát trong giai đoạn đầu.

PGS.TS Nguyễn Thị Thuỷ và NCS Đỗ Lệnh Quân (Trường Đại học Luật TPHCM)
PGS.TS Nguyễn Thị Thuỷ và NCS Đỗ Lệnh Quân (Trường Đại học Luật TPHCM)

Thách thức về An ninh mạng do rủi ro tấn công mạng đối với một trung tâm tài chính số hóa cũng là rất lớn, vì vậy giải pháp thực hiện là miễn thuế nhập khẩu cho các thiết bị và phần mềm an ninh mạng hàng đầu thế giới tại khoản 5 Điều 27 để các thiết bị này được trang bị kịp thời và đầy đủ. Cơ quan giám sát cần ban hành quy chuẩn bảo mật bắt buộc theo tiêu chuẩn quốc tế (ISO/IEC 27001) cho tất cả các thành viên.

Cuối cùng là thách thức về cạnh tranh khu vực vì các đối thủ không đứng yên. Do vậy, lợi thế cạnh tranh ở đây nằm ở tốc độ triển khai và tính vượt trội của NQ 222. Chúng ta cần phải hành động nhanh để biến các thủ tục ưu đãi trên giấy tờ như (miễn thuế TNCN, miễn trừ trách nhiệm trong sandbox) thành hiện thực, tạo ra một môi trường làm việc và đầu tư hấp dẫn hơn hẳn so với các nước láng giềng...  

Qua được Giai đoạn 1, chúng ta sẽ bước vào Giai đoạn 2. Đây chính là quá trình chuyển đổi bản chất của IFC Việt Nam. Nó không chỉ đơn thuần mở rộng các hoạt động, mà là quá trình xây dựng “nội lực” để thay thế cho các yếu tố “vay mượn” và “ưu đãi” của giai đoạn đầu.

Khi hoàn thành Giai đoạn 2, IFC Việt Nam sẽ hoàn thiện đầy đủ 7 trụ cột cần thiết, sẽ không còn cần phải dựa vào việc “trải thảm đỏ” để mời gọi, mà các nhà đầu tư sẽ tự tìm đến vì đây là một thị trường không thể bỏ lỡ trong khu vực – đó chính là dấu hiệu của một Trung tâm tài chính cốt lõi.

Với thành công của giai đoạn 1 và 2, chúng ta có thể tiếp bước Giai đoạn 3 với mục tiêu: Vươn tầm “IFC CORE” có ảnh hưởng tại Châu Á. Lúc này IFC tại Việt Nam sẽ là cầu nối các dòng vốn trong khu vực Châu Á và trở thành một IFC phát triển vững mạnh trong khu vực.

Tham vọng của IFC Việt Nam như trên nghe có vẻ là rất lớn, nhưng lộ trình được thiết kế một cách thực tế. Lộ trình này đi từ “Vệ tinh” lên “Cốt lõi” và từ “Khu vực Đông Nam Á” vươn ra “Châu Á”. Đây là một chiến lược phát triển hợp lý, có tính logic cao.

PGS.TS Nguyễn Thị Thuỷ (Khoa Luật Thương mại, ĐH Luật TPHCM) - NCS Đỗ Lệnh Quân (Khoa Luật Kinh tế, ULAW)