Tăng gấp đôi khung thuế đối với xăng, dầu, mỡ nhờn
Theo Bộ Tài chính, mức thuế BVMT đối với xăng, dầu, mỡ nhờn đã bằng mức tối đa trong khung thuế (đối với nhiên liệu bay) hoặc gần bằng mức tối đa trong khung thuế. Theo đó, trường hợp cần thiết phải điều chỉnh mức thuế BVMT đối với xăng dầu để phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước trong từng thời kỳ là rất khó, đặc biệt trong điều kiện phải cắt giảm dần thuế nhập khẩu đối với xăng dầu theo cam kết quốc tế; và giá xăng dầu của Việt Nam hiện đang thấp hơn so với giá xăng dầu của các nước có chung đường biên giới nói riêng và nhiều nước khác trong khu vực ASEAN và Châu Á nói chung.
Biểu khung thuế được Bộ Tài chính đề xuất trong dự thảo Luật thuế BVMT được tính toán trên cơ sở việc thực hiện cắt giảm dần thuế nhập khẩu theo cam kết trong các hiệp định thương mại tự do (hiện nay, Việt Nam đã và đang tham gia 11 Hiệp định thương mại tự do). Hơn nữa, hiện nay, giá bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam cơ bản đang thấp hơn so với các nước có chung đường biên giới nói riêng và nhiều nước khác trong khu vực ASEAN. Trong khi đó, tỷ lệ thuế (gồm: thuế nhập khẩu, thuế TTĐB, thuế BVMT, thuế GTGT) trên giá cơ sở của Việt Nam đang ở mức thấp (37,49% đối với xăng; 20,76% đối với dầu diesel; 11,59% đối với dầu hỏa; và 19,13% đối với dầu mazút) so với nhiều nước.
Theo đó, Bộ Tài chính đề nghị điều chỉnh khung thuế BVMT đối với xăng, dầu, mỡ nhờn như sau: mức thuế tối thiểu điều chỉnh tăng bằng mức thuế cụ thể đang áp dụng; mức thuế tối đa điều chỉnh tăng bằng 2 lần mức thuế tối đa trong khung thuế hiện hành (khung thuế áp dụng cho lộ trình dài). Riêng đối với dầu hỏa, đề nghị giữ khung thuế BVMT như hiện hành vì dầu hỏa là mặt hàng thiết yếu phục vụ cho đa số người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa.
Xăng dầu sinh học tính thuế thế nào?
Tại điểm a khoản 1 Điều 3 Luật thuế BVMT quy định “xăng, trừ etanol” thuộc đối tượng chịu thuế. Như vậy, theo quy định hiện hành, thuế BVMT chỉ thu đối với xăng gốc hóa thạch, không thu thuế đối với etanol (E100). Đối với xăng, dầu sinh học (như xăng E5, dầu diesel B5 - có tỷ lệ 4-5% etanol; xăng E10, dầu diesel B10 - chứa tỷ lệ 9-10% etanol) thì chỉ tính thu thuế BVMT theo tỷ lệ xăng, dầu gốc hóa thạch có trong xăng, dầu sinh học.
Tại Quyết định số 53/2012/QĐ-TTg ngày 22/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành lộ trình áp dụng tỷ lệ phối trộn nhiên liệu sinh học với nhiên liệu truyền thống giao: Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các chính sách ưu đãi về thuế đối với các sản phẩm nhiên liệu sinh học theo từng giai đoạn của lộ trình; Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về nhiên liệu sinh học thực hiện lộ trình thực hiện theo quy định của Bộ Khoa học và Công nghệ.
Để khuyến khích hơn nữa việc sản xuất và sử dụng xăng, dầu sinh học theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đề nghị bổ sung 1 khoản tại Điều 8 Luật thuế BVMT quy định mức thuế BVMT ưu đãi đối với xăng, dầu sinh học.
Cụ thể, đối với xăng E5, E10 và dầu diesel B5, B10, quá trình xây dựng dự thảo luật, có hai phương án được đưa ra. Phương án 1, đối với xăng E5 và dầu diesel B5, mức thuế cụ thể bằng 80% mức thuế cụ thể của xăng gốc hóa thạch và dầu diesel tương ứng. Đối với xăng E10 và dầu diesel B10: mức thuế cụ thể bằng 70% mức thuế cụ thể của xăng gốc hóa thạch và dầu diesel tương ứng. Quy định này tương tự như quy định về mức thuế tiêu thụ đặc biệt ưu đãi đối với xăng sinh học: xăng khoáng là 10%, xăng E5 là 8%, xăng E10 là 7%.
Theo phương án 2 thì ưu đãi thấp hơn phương án 1. Cụ thể, đối với xăng E5 và dầu diesel B5, mức thuế cụ thể bằng 90% mức thuế cụ thể của xăng gốc hóa thạch và dầu diesel tương ứng. Đối với xăng E10 và dầu diesel B10, mức thuế cụ thể bằng 80% mức thuế cụ thể của xăng gốc hóa thạch và dầu diesel tương ứng.
Để khuyến khích việc sản xuất và sử dụng xăng, dầu sinh học E5, E10, B5, B10 và thống nhất với quy định của chính sách thuế TTĐB, Bộ Tài chính chọn phương án 1.