Bộ, ngành phải tích cực triển khai giai đoạn 3 Đề án 30

 Ông Ngô Hải Phan, Cục trưởng Cục kiểm soát TTHC, Văn phòng Chính phủ cho biết, để thực thi các phương án đơn giản hóa 5.000 TTHC đã được Chính phủ thông qua, các cấp trung ương sẽ phải sửa đổi, bãi bỏ, thay thế 1.016 văn bản pháp luật… Đây là một khối lượng công việc khổng lồ trong triển khai giai đoạn 3 của Đề án 30, đòi hỏi sự vào cuộc tích cực của tất cả bộ, ngành.

Các kết quả cải cách theo Đề án 30 về đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC) của Chính phủ chỉ có thể đi vào cuộc sống sau khi các văn bản pháp luật được sửa đổi, bổ sung. Theo tính toán, để thực thi các phương án đơn giản hóa 5.000 TTHC đã được Chính phủ thông qua, các cấp trung ương sẽ phải sửa đổi, bãi bỏ, thay thế 1.016 văn bản pháp luật, bao gồm Luật, Pháp lệnh, Nghị định… Đây là một khối lượng công việc khổng lồ đòi hỏi sự vào cuộc tích cực của tất cả các bộ, ngành.

Anh ong NgoHaiPhan.jpg
 

Ông Ngô Hải Phan, Cục trưởng Cục kiểm soát TTHC, Văn phòng Chính phủ đã trao đổi với Pháp Luật VN về một số nội dung, tiến độ cũng như giải pháp triển khai giai đoạn 3 của Đề án 30.
 * Theo ông, tiến độ hoàn thành Đề án 30 phụ thuộc vào điều gì nhất? Vì sao? - Qua thực tiễn triển khai 2 giai đoạn của Đề án 30 và qua các buổi làm việc với các bộ, ngành để đôn đốc việc thực thi phương án đơn giản hóa của gần 5000 TTHC (giai đoạn 3 của Đề án 30) đã được Chính phủ thông qua tại 25 Nghị quyết cho thấy tiến độ hoàn thành giai đoạn này phụ thuộc vào 4 vấn đề chính sau đây:
Thứ nhất, đó chính là sự quan tâm chỉ đạo quyết liệt của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ đối với việc thực thi các phương án đơn giản hóa TTHC thuộc phạm vi chức năng quản lý của bộ, ngành, với mong muốn sớm đưa các phương án đơn giản hóa này đi vào cuộc sống phục vụ tốt hơn cho người dân và cộng đồng doanh nghiệp.
Thứ hai, đó chính là sự vào cuộc chủ động trong công tác tham mưu của Chánh Văn phòng, Vụ trưởng Vụ pháp chế đối với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ trong việc triển khai thực thi các nghị quyết của Chính phủ về đơn giản hóa, cũng như làm tốt chức năng “đốc” việc của Văn phòng bộ. 
Thứ ba, là vai trò chủ động, tích cực của các bộ, ngành, các vụ, cục trong việc thực thi các phương án đơn giản hóa TTHC, cũng như sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, các vụ, cục trong sửa đổi, bãi bỏ các TTHC có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ được giao.
Thứ tư, là cần phải có sự nhận thức đúng và cách làm khoa học. Qua làm việc thấy nhiều bộ, ngành bên cạnh việc thực thi phương án đơn giản hóa TTHC lại mở rộng sang các nội dung khác để sửa đổi, bổ sung tổng thể văn bản (nghị định, thông tư) – những vấn đề mới cần có thời gian nghiên cứu hoặc mỗi nhóm thủ tục lại sửa riêng rẽ từng văn bản dẫn đến kéo dài thời hạn thực thi. Tôi cho rằng nếu các bộ thực hiện đúng nghị quyết của Chính phủ chỉ tập trung sửa đổi các thủ tục theo phương án nêu trong nghị quyết; áp dụng triệt để kỹ thuật 1 văn bản sửa nhiều văn bản (dự thảo một nghị định để sửa nhiều nghị định, một thông tư để sửa nhiều thông tư) và hội tụ đủ 3 yếu tố nêu trên thì chắc chắn sẽ hoàn thành vượt tiến độ của Đề án 30.
* Có ý kiến cho rằng nếu dùng kỹ thuật một văn bản sửa nhiều văn bản thì sẽ dẫn tới tình trạng cùng một văn bản nhưng sửa đổi nhiều lần, khó theo dõi. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?- Khi Chính phủ đã xác định rõ trong Nghị quyết những TTHC nào cần phải sửa đổi ra sao để tạo thuận lợi và giảm gánh nặng cho người dân, doanh nghiệp thì trách nhiệm của cơ quan nhà nước theo nhiệm vụ đã được Chính phủ giao phải sửa đổi ngay những nội dung đó trong các văn bản. Việc sửa đổi này không ảnh hưởng khó khăn tới việc theo dõi và tiếp cận TTHC vì theo Quy định tại Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 6/8/2010 của Chính phủ về kiểm soát TTHC thì trước 10 ngày văn bản chứa đựng TTHC có hiệu lực thi hành phải được các bộ, ngành, địa phương công bố công khai bằng quyết định của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh với đầy đủ các bộ phận cấu thành của một TTHC cụ thể, kèm toàn văn nội dung của các văn bản quy định về TTHC đó. TTHC và các văn bản quy định về TTHC được cập nhật và công khai trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC và được niêm yết tại nơi giải quyết TTHC.
* Hiện nay, việc triển khai đánh giá tác động đối với các quy định về TTHC trong các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật tại các Bộ, ngành được thực hiện như thế nào? - Các bộ, ngành đã bắt đầu triển khai việc đánh giá tác động các quy định về TTHC. Tuy nhiên, công việc này sẽ được thực hiện tốt hơn sau khi đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tham mưu, hoạch định chính sách ở các bộ, ngành, địa phương được tập huấn về cách thức đánh giá tác động các quy định TTHC. Dự kiến trung tuần tháng 4/2011, Cục kiểm soát TTHC sẽ tập huấn cho đại diện Lãnh đạo Văn phòng bộ, ngành, địa phương phụ trách công tác kiểm soát TTHC và toàn bộ cán bộ công chức thuộc biên chế của Phòng kiểm soát TTHC. Trên cơ sở đó, số cán bộ này sẽ về tập huấn cho các cán bộ của các vụ, cục thuộc bộ, sở, ngành và cán bộ đầu mối cấp huyện, cấp xã ở từng địa phương.
Việc đánh giá tác động các quy định về TTHC có ý nghĩa thiết thực trong việc tăng cường “trách nhiệm giải trình” trước nhân dân của các ban soạn thảo về sự cần thiết, tính hợp lý, tính hợp pháp và tính hiệu quả của quy định về TTHC dự kiến ban hành. Nếu các thành viên trong ban soạn thảo, tổ biên tập không trả lời được các câu hỏi nêu trong các biểu mẫu đánh giá mà vẫn cứ trình ban hành thủ tục này thì các đối tượng chịu sự tác động sẽ khó khăn trong việc thực hiện và nhiều hệ lụy khác có thể xảy ra.
Tuy nhiên, tôi cũng xin lưu ý rằng đây là một công việc khó vì làm thay đổi thói quen, cách làm cũ. Đây là công việc mang tính khoa học và khách quan, đòi hỏi sự đầu tư đủ thời gian, công sức, trí tuệ của đội ngũ cán bộ công chức.
* Xin cảm ơn ông!

Hoàng Thư (thực hiện)