Trong các năm 1998, 1999, 2001 ông Nguyễn Hữu Thao và vợ là bà Nguyễn Thị Bình (hộ khẩu: 1023, Nguyễn Trãi, Phường 14, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh) được Tư lệnh Quân Đoàn 4 giao cho 03 lô đất thuộc khu gia đình Lữ Đoàn 434 tại xã Bình Hòa, huyện Thuận An (nay là phường Bình Hòa, TP Thuận An).
Ngày 17/12/2008, ông Thao và bà Nguyễn Thị Bình làm Đơn xin kê khai nguồn gốc đất và Đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhằm mục đích xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các thửa đất nêu trên.
Tháng 4/2020, gia đình ông Thao nhận được các Thông báo nộp lệ phí trước bạ nhà, đất và Thông báo nộp tiền sử dụng đất của Chi cục Thuế Thành phố Thuận An đối với 03 thửa đất nêu trên, với số tiền gần 3 tỷ đồng.
Không đồng ý với số tiền sử dụng đất và thuế trước bạ theo thông báo, ông Thao làm đơn đến Chi cục Thuế TP. Thuận An và Cục thuế tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên, sau khi giải thích hai cơ quan này vẫn giữ nguyên cách tính và số tiền ông Thao phải nộp như Thông báo trước đó. Do đó, ông Thao đã kiện Chi cục thuế TP. Thuận An ra toà.
Tại bản án sơ thẩm số 01/2021/HC-ST ngày 21/9/2021 của TANDTP. Thuận An đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hữu Thao; cho rằng các thông báo của Chi cục thuế TP. Thuận An được ban hành đúng trình tự, thẩm quyền.
Đáng ngạc nhiên là việc mở phiên toà để xem xét các quyết định hành chính có đúng thẩm quyền, nội dung…hay không thì bản án của TAND TP. Thuận An lại liên tục cho rằng việc Quân đoàn 4 giao đất cho ông Thao, bà Bình là …không đúng thẩm quyền. Mặc dù trong bản án cũng đã nêu rõ “Hiện nay, ông Thao, bà Bình đã được UBND TP. Thuận An ra quyết định công nhận quyền sử dụng đất…”
Đối với nội dung các thông báo nộp lệ phí trước bạ nhà đất của Chi cục Thuế TP. Thuận An, mặc dù ông Thao cũng xuất trình các chứng từ chứng minh đã nộp tiền sử dụng đất cho Sư đoàn 9 (Quân đoàn 4) để nhận các quyết định cấp đất, tuy nhiên Toà án TP Thuận An không công nhận mà cho rằng đây là tiền cân đối kinh phí xây dựng cơ sở hạ tầng!?
Tại phiên toà sơ thẩm, Luật sư bảo vệ cho ông Thao cũng đã chỉ rõ: Trong các Quyết định số 794/QĐ-NĐ ngày 20/3/1998; Quyết định số 1269/QĐ-NĐ ngày 25/7/1999 và Quyết định số 795/QĐ-ND ngày 10/5/2001 của Tư lệnh Quân đoàn 4 có ghi rõ: giao đất để xây dựng nhà ở. Điều này có nghĩa rằng khi giao đất thì mục đích sử dụng đất đã là đất ở.
Đến ngày 03/4/2007 Quân đoàn 4 đã lập biên bản bàn giao cho UBND tỉnh Bình Dương khu gia đình sĩ quan, Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng (gọi tắt là khu gia đình lữ đoàn 434 hoặc khu 434); trong đó có khu nhà ở của ông Thao, bà Bình. Tại biên bản bàn giao này, các cơ quan có ghi nhận rõ: “khu nhà ở”. Như vậy, một sự thật không thể chối cãi được: mục đích sử dụng đất khu 434 này phải là đất ở.
Căn cứ điểm b khoản 1 điều 8 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ có quy định: Trường hợp sử dụng đất có nhà ở ổn định trong khoảng thời gian từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và có giấy tờ chứng minh đã nộp tiền để được sử dụng đất, thì thu tiền sử dụng đất như sau: Nếu giấy tờ chứng minh đã nộp tiền để được sử dụng đất theo đúng mức thu quy định của pháp luật đất đai năm 1993 thì không thu tiền sử dụng đất;”.
Tại điểm c khoản 1 Điều 5 của Thông tư số 10/2018/TT-BTC ngày 30/01/2018 của Bộ Tài chính về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của thông tư số 76/2014/TT-BTC ngày 16/6/2014 của Bộ Tài chính quy định:“Giấy tờ chứng minh về việc đã nộp tiền cho cơ quan, tổ chức để được sử dụng đất khi xác định tiền sử dụng đất quy định tại Điểm a, Điểm b Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP; bao gồm: Biên lai, phiếu thu, hóa đơn hoặc các loại giấy tờ khác chứng minh đã nộp tiền để được sử dụng đất của Ủy ban nhân dân các cấp hoặc của cơ quan, tổ chức giao đất không đúng thẩm quyền.”
Điều này hoàn toàn phù hợp với chứng cứ là Danh sách thu tiền đất ngày 20/5/1998 của Quân đoàn 4 mà ông Thao và bà Bình đã giao nộp cho tòa án để chứng minh gia đình ông bà đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính trước khi nhận đất để cất nhà ở.
Đồng thời vào ngày 11/01/2021 Sư đoàn 9 - Quân đoàn 4 đã có văn bản xác nhận “ông Nguyễn Hữu Thao, bà Nguyễn Thị Bình đã đóng tiền đất để nhận quyết định cấp đất…”. Do đó các thông báo nộp tiền sử dụng đất của Chi cục thuế thành phố Thuận An được ban hành để yêu cầu ông Thao, bà Bình nộp tiền sử dụng đất là không có căn cứ, trái pháp luật.
Luật sư cũng chỉ rõ: Thông báo nộp lệ phí trước bạ và thông báo nộp tiền sử dụng đất mà chi cục thuế Thuận An đã ban hành để áp dụng cho ông Thao, bà Bình được ban hành dưới dạng văn bản số; các văn bản này không có chữ ký, họ tên, chức vụ của người ký ban hành, không có con dấu của cơ quan ban hành (ông Thao, bà Bình chỉ nhận bản photo). Như vậy, các văn bản này không đảm bảo về mặt hình thức cũng như trình tự thủ tục ban hành, cho nên theo quy định của Luật Tố tụng hành chính không thể là quyết định hành chính mang tính áp dụng cá biệt cho một chủ thể bị áp dụng.
Do đó, Luật sư cho rằng, các yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hữu Thao và bà Nguyễn Thị Bình là có căn cứ, các quyết định hành chính bị khởi kiện có chứa đựng nội dung trái pháp luật, thể thức ban hành không đúng nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện, hủy các quyết định hành chính trái pháp luật.
Tuy nhiên, với những lập luận thiếu thuyết phục, còn nhiều mâu thuẫn, có biểu hiện thiếu khách quan, TANDTP. Thuận An vẫn tuyên bản án nêu trên. Ngay sau đó vợ chồng ông Thao, bà Bình đã làm đơn kháng cáo.
Hy vọng, cấp phúc thẩm tới đây, TAND tỉnh Bình Dương sẽ xem xét vụ việc một cách thấu đáo, công bằng để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người dân.