Biến đổi khí hậu làm tăng bất bình đẳng giới trên vùng cao

Khu vực HKH là nơi cư trú của một số cộng đồng dễ bị tổn thương nhất trước tác động của biến đổi khí hậu.
Khu vực HKH là nơi cư trú của một số cộng đồng dễ bị tổn thương nhất trước tác động của biến đổi khí hậu.
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Khu vực Hindu Kush Himalaya nổi tiếng với những dãy núi hùng vĩ, đa dạng sinh học phong phú, cũng là nơi cư trú của một số cộng đồng dễ bị tổn thương nhất trước tác động của biến đổi khí hậu. Tại đó, phụ nữ ở vùng cao phải đối mặt với những gánh nặng không cân xứng do vai trò truyền thống của họ trong nông nghiệp, quản lý tài nguyên và công việc gia đình.

Phụ nữ dễ bị tổn thương hơn…

Khu vực Hindu Kush Himalaya (HKH) bao gồm các quốc gia như Afghanistan, Bangladesh, Bhutan, Trung Quốc, Ấn Độ, Myanmar, Nepal và Pakistan, rất nhạy cảm với các tác động của biến đổi khí hậu. Băng tan với tốc độ đáng báo động, mô hình lượng mưa trở nên khó dự đoán hơn, các hiện tượng thời tiết cực đoan như lũ lụt, sạt lở ngày càng diễn ra thường xuyên hơn. Theo đó, sinh kế của các cộng đồng miền núi vốn phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi, chịu ảnh hưởng nặng nề. Đáng nói, theo truyền thống, phụ nữ vùng núi ở những quốc gia này thường đảm nhiệm công việc chăm sóc chính cho đất đai và tài nguyên thiên nhiên, phải gánh chịu nhiều tác động trực tiếp.

Theo nghiên cứu của Trung tâm Phát triển Núi Quốc tế (ICIMOD), tác động của biến đổi khí hậu tại khu vực HKH không mang tính trung lập về giới. Biến đổi khí hậu làm gia tăng sự bất bình đẳng giới, đặt ra nhiều thách thức trong khả năng thích ứng, sinh tồn và phát triển của phụ nữ vùng núi. Do vai trò là những người chăm sóc chính, lao động nông nghiệp cũng như tìm kiếm nguồn nước, phụ nữ phải đối mặt với những thách thức đặc biệt mà nam giới thường không gặp phải. Ví dụ, tình trạng khan hiếm nước, gây ra bởi băng tan và lượng mưa không đều, buộc phụ nữ phải đi xa hơn để tìm nước, gia tăng khối lượng công việc của họ, đặt họ vào những rủi ro lớn hơn, chẳng hạn như bạo lực giới. Tại một số khu vực ở Nepal, phụ nữ hiện dành tới 40% thời gian trong ngày để tìm nước. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của họ và giới hạn khả năng tham gia vào các hoạt động tạo thu nhập hoặc giáo dục.

Phụ nữ tại khu vực HKH thường là lao động nông nghiệp chính. (Ảnh trong bài: ICIMOD)

Phụ nữ tại khu vực HKH thường là lao động nông nghiệp chính. (Ảnh trong bài: ICIMOD)

Hơn nữa, thay đổi mô hình canh tác đã tác động mạnh đến phụ nữ. Theo truyền thống, phụ nữ ở khu vực HKH chịu trách nhiệm quản lý nông nghiệp nhỏ lẻ và chăn nuôi. Với thời tiết khó lường và hạn hán ngày càng thường xuyên, việc mất mùa trở nên phổ biến hơn. Hiện tượng đồng cỏ bị thu hẹp do biến đổi khí hậu cũng đã làm suy giảm sức khỏe vật nuôi, ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định kinh tế của các hộ gia đình do phụ nữ đứng đầu. Phụ nữ thường thiếu các nguồn lực tài chính hoặc chuyên môn kỹ thuật để áp dụng các kỹ thuật canh tác chống chịu với khí hậu, khiến họ dễ bị tổn thương hơn trước tình trạng mất an ninh lương thực và nghèo đói.

Ngoài ra, các chuẩn mực văn hóa và cấu trúc xã hội thường ngăn cản phụ nữ có tiếng nói trong các quyết định liên quan đến thích ứng với khí hậu. Sự di cư của nam giới từ các vùng nông thôn đến các thành phố để tìm kiếm cơ hội kinh tế đã để lại nhiều trách nhiệm hơn cho phụ nữ. Mặc dù điều này đã làm gia tăng vai trò của họ trong nông nghiệp, nhưng không đồng nghĩa với việc họ được trao quyền nhiều hơn, vì họ vẫn bị bỏ ra ngoài khỏi các hệ thống quản trị và tài chính chính thức.

…Nhưng cũng là động lực của sự thay đổi

Mặc dù đối mặt với nhiều thách thức, ICIMOD nhấn mạnh rằng phụ nữ không chỉ là những nạn nhân thụ động của biến đổi khí hậu mà còn là những tác nhân chủ động của sự thay đổi. Tri thức sâu rộng của họ về môi trường địa phương và quản lý tài nguyên khiến họ trở thành những người đóng vai trò quan trọng trong các chiến lược thích ứng với khí hậu.

Ví dụ, tại Uttarakhand, Ấn Độ, phụ nữ đã dẫn đầu các nỗ lực cộng đồng nhằm bảo tồn rừng và tài nguyên nước, chẳng hạn như khôi phục các kỹ thuật bảo tồn nước truyền thống như “johads” - những con đập đất nhỏ giúp thu nước. Những nỗ lực từ cơ sở này đã góp phần đáng kể vào việc cải thiện nguồn nước ở các khu vực khô hạn. Tương tự, tại Nepal, các hợp tác xã của phụ nữ đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nông nghiệp chống chịu với khí hậu bằng cách áp dụng các kỹ thuật như nông lâm kết hợp, kết hợp trồng cây với các thực hành nông nghiệp truyền thống. Những sáng kiến này không chỉ cải thiện sức khỏe đất đai và khả năng giữ nước mà còn mang lại nguồn thu nhập bổ sung từ việc bán các sản phẩm từ lâm nghiệp và phi lâm nghiệp.

ICIMOD khẳng định, việc trao quyền cho phụ nữ tham gia vào quá trình ra quyết định và cung cấp cho họ quyền tiếp cận các nguồn lực, giáo dục, công nghệ là điều cần thiết để xây dựng khả năng chống chịu với khí hậu ở các cộng đồng vùng núi. Phụ nữ đang dần thích ứng theo những cách sáng tạo, nhưng nỗ lực của họ cần được hỗ trợ bởi các can thiệp chính sách công nhận vai trò trung tâm của họ trong hành động về khí hậu. Một kết quả đáng kể từ nghiên cứu của ICIMOD là nhu cầu cấp thiết về các chính sách khí hậu lồng ghép giới. Nếu không giải quyết các bất bình đẳng giới tồn tại trong khu vực HKH, các nỗ lực giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu sẽ không hoàn thiện. ICIMOD kêu gọi tích hợp các quan điểm về giới vào các khung thích ứng khí hậu quốc gia và khu vực. Điều này bao gồm việc đảm bảo rằng phụ nữ có quyền tiếp cận bình đẳng với các nguồn tài chính, công nghệ chống chịu khí hậu và tham gia vào các diễn đàn ra quyết định liên quan đến hành động về khí hậu.

Biến đổi khí hậu khiến phụ nữ phải đi xa hơn, tốn nhiều thời gian hơn để tìm kiếm nước sạch.

Biến đổi khí hậu khiến phụ nữ phải đi xa hơn, tốn nhiều thời gian hơn để tìm kiếm nước sạch.

Ví dụ, Chính phủ Nepal đã bắt đầu thực hiện Kế hoạch hành động thích ứng cấp địa phương (LAPA), nhằm giải quyết các nhu cầu cụ thể của phụ nữ, cộng đồng bản địa và các nhóm dễ bị tổn thương khác. Các kế hoạch này tập trung vào việc thúc đẩy sinh kế bền vững thông qua các chương trình đào tạo, cải thiện khả năng tiếp cận năng lượng sạch và hỗ trợ các hợp tác xã của phụ nữ trong quản lý tài nguyên thiên nhiên. Tại Bhutan, các chương trình lồng ghép giới tương tự đã được triển khai nhằm cung cấp cho phụ nữ quyền tiếp cận các chương trình tín dụng vi mô, cho phép họ đầu tư vào các thực hành nông nghiệp chống chịu khí hậu. Cùng với đó, họ tổ chức nhiều hội thảo xây dựng năng lực đào tạo phụ nữ vào các vai trò lãnh đạo, giúp thu hẹp khoảng cách giữa nam - nữ trong các vị trí ra quyết định.

Giáo dục và xây dựng năng lực là yếu tố then chốt giúp phụ nữ vượt qua các thách thức do biến đổi khí hậu gây ra. Tại các khu vực như Kashmir và Pakistan, các tổ chức phi chính phủ đã bắt đầu cung cấp các chương trình đào tạo tập trung vào nông nghiệp bền vững, chuẩn bị đối phó với thảm họa và quản lý rủi ro khí hậu cho phụ nữ. Các sáng kiến giáo dục đang được mở rộng để không chỉ giúp đỡ thế hệ hiện tại mà còn hướng đến thế hệ tương lai, với trọng tâm là đào tạo các bé gái về khoa học môi trường và các thực hành phát triển bền vững. Điều này rất quan trọng trong việc xây dựng khả năng chống chịu lâu dài bằng cách trang bị cho phụ nữ và trẻ em gái những công cụ cần thiết để đối phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường. Tại Nepal, các chương trình giáo dục liên tục về khoa học công nghệ là chìa khóa giúp phụ nữ ứng dụng những phương pháp canh tác và quản lý tài nguyên hiệu quả hơn. Thông qua đó, phụ nữ biết cách sử dụng công nghệ hiện đại để tăng năng suất nông nghiệp, bảo vệ môi trường, góp phần vào việc nâng cao đời sống của họ và gia đình.

Nhìn chung, biến đổi khí hậu đang gây ra những thách thức to lớn đối với phụ nữ vùng cao tại khu vực HKH, nhưng đồng thời mang lại cơ hội để tái cấu trúc xã hội và các mô hình phát triển, nơi phụ nữ có thể đóng vai trò trung tâm trong các giải pháp bền vững. Với các chính sách nhạy cảm về giới và sự trao quyền cho phụ nữ, không chỉ cộng đồng HKH mà toàn bộ xã hội sẽ được hưởng lợi từ sự kiên cường và sáng tạo của họ. Hơn nữa, bằng cách tận dụng tri thức bản địa của phụ nữ, hỗ trợ họ về mặt tài chính, tích hợp họ vào các quá trình ra quyết định, cộng đồng có thể tiến tới một tương lai bền vững và khả năng thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu.

Tin cùng chuyên mục

Đọc thêm

Bãi biển đẹp nhất Quảng Ngãi bị sạt lở, uy hiếp đường giao thông

Bãi biển đẹp nhất Quảng Ngãi bị sạt lở, uy hiếp đường giao thông
(PLVN) - Bờ biển Mỹ Khê (xã Tịnh Khê, TP Quảng Ngãi) được xem là bãi biển đẹp nhất tỉnh nhưng đang bị nước biển xâm thực, sạt lở nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến cuộc sống, sản xuất của người dân. Sạt lở bờ biển cũng uy hiếp các công trình hạ tầng đường giao thông, dầu khí, đồn biên phòng…

Ngắm nhìn vẻ đẹp hoang sơ, lạ mắt của rừng ngập mặn Bàu Cá Cái

Ngắm nhìn vẻ đẹp hoang sơ, lạ mắt của rừng ngập mặn Bàu Cá Cái
(PLVN) - Bàu Cá Cái (Quảng Ngãi) là rừng ngập mặn được bao bọc xung quanh bởi các dãy núi và đồi cát hình thành cách đây hơn 200 năm với những vết tích xưa cũ. Nơi đây không chỉ có tác dụng phòng hộ, chắn sóng mà còn mở ra hướng thoát nghèo, tạo sinh kế bền vững cho người dân sống trong vùng nhờ những sản vật từ rừng và phát triển du lịch cộng đồng.

Thay đổi lớn từ những hành động nhỏ

Lối sống xanh không chỉ là một xu hướng mà là một cách tiếp cận bền vững, giúp bảo vệ môi trường.
(PLVN) - Trong bối cảnh chuyển đổi năng lượng toàn cầu, mỗi hành động nhỏ hàng ngày của chúng ta đều có tác động lớn đến môi trường sống, góp phần vào việc giảm thiểu tác động xấu đến Trái đất.

Nỗ lực hơn nữa để tiếp nhận động vật hoang dã bị tịch thu từ buôn bán trái phép

Giải chạy thu hút hơn 300 vận động viên đến từ 26 quốc gia. (Ảnh: ENV)
(PLVN) - Ông Lương Xuân Hồng - Giám đốc Trung tâm Cứu hộ động vật hoang dã (ĐVHD) Hà Nội đã khẳng định điều này tại Giải “Chạy để cứu hộ ĐVHD” tại Việt Nam trong khuôn khổ Giải chạy “Song Hong Half Marathon” lần thứ 15 vừa được Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV) phối hợp với Sporting Republic tổ chức.

Gấp rút hoàn thiện khung pháp lý về tín chỉ carbon

Ảnh minh hoạ.
(PLVN) -  Giai đoạn 2021 - 2025, Việt Nam đặt mục tiêu tạo ra 25 triệu tín chỉ carbon; là nhiệm vụ được lãnh đạo Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng các Bộ, ngành triển khai thực hiện sau Hội nghị COP21 (năm 2015).

Thu lợi nhuận hàng trăm triệu đồng nhờ sáng kiến quản lý chất thải nhựa y tế

Sáng kiến quản lý chất thải nhựa y tế tại Bệnh viện Việt Nam - Thuỵ Điển Uông Bí (Quảng Ninh). Ảnh: Ngọc Nga
(PLVN) - Sáng kiến quản lý chất thải nhựa y tế đã giúp Bệnh viện Việt Nam - Thuỵ Điển Uông Bí (tỉnh Quảng Ninh) thu về hàng trăm triệu đồng. Đây là đơn vị đầu tiên trong cả nước có giải pháp tái chế chất thải nhựa lây nhiễm bằng phương pháp hấp tiệt khuẩn hơi nước, mang lại hiệu quả về kỹ thuật, kinh tế, xã hội.