Thâm u nghĩa trang Y Pha Nho
Khu đồi hài cốt chỉ còn khoảng 500m2 , với bốn bức tường đá bao quanh nằm nép mình cạnh rất nhiều cơ quan hành chính của thương cảng Tiên Sa (Đà Nẵng). Qua chỉ dẫn của cụ Lê- một bậc cao niên trong vùng, tôi đi vào ngôi nhà nguyện hoang lạnh với cây thánh giá vươn cao, bao quanh khoảng bốn chục nấm mồ với bia đá khắc tên những người lính bỏ mình nơi đất khách.
Với người dân sinh sống dưới chân bán đảo Sơn Trà, hỏi địa danh này, không ai không biết và họ quen gọi với cái tên “nghĩa trang Y Pha Nho”. Riêng những người lớn tuổi am hiểu tiếng Pháp như cụ Lê, thường đọc “Ossuaire”, tức đồi hài cốt. Nó như một chứng tích của hơn 150 năm trước quân dân Đà Nẵng đã tử chiến với những tên lính xâm lược từ phương Tây.
Theo cụ Lê cũng như nhiều người dân sinh sống trước cổng khu cảng Tiên Sa, hàng năm cứ đến ngày 25/12, đồi hài cốt thu hút rất đông du khách phương Tây tìm đến. Mọi người lý giải, họ đển để cầu nguyện cho linh hồn những người lính viễn chinh đã mãi mãi nằm lại nơi chân núi bán đảo Sơn Trà. Cũng lời cụ Lê, từ cả trăm năm nay, bà con nhân dân đã vào nghĩa trang thắp hương cho các vong hồn đỡ quạnh vắng.
Theo tư liệu để lại, từ thế kỷ XVIII, khu vực vịnh nước sâu dưới chân bán đảo Sơn Trà bắt đầu hình thành nên một thương cảng. Dù 3 bề núi bao bọc nhưng ngay từ khi đi vào hoạt động đã sầm uất không kém và thay thế cho thương cảng Hội An (Quảng Nam ngày nay). Cũng từ thời điểm này, thông qua những thương lái, chính quyền mẫu quốc đại Pháp bắt đầu chú ý đến tầm quan trọng của hải cảng Đà Nẵng (Tourane) trên biển Đông.
Để thực hiện ý đồ xâm chiếm nước An Nam, vào tháng 4/1821 và tháng 12/1824, Chính phủ Pháp phái hai chiến hạm đến Đà Nẵng dâng thư lên Vua xin thông thương. Với những gì đã được vạch ra, tháng 4/1837, Hoàng đế Napoléon III thành lập một Hội đồng Nghiên cứu Việt Nam. Ngay sau đó, một đệ trình ý kiến của Hội đồng nghiên cứu nên đánh chiếm vùng đất An Nam vì lợi ích địa chính trị và cần phải bí mật chuẩn bị một đội quân viễn chinh hùng mạnh đánh nhanh, thắng nhanh rồi chọn cảng Tiên Sa mở đầu cho cuộc xâm lược.
Đến ngày 25/11/1857, chiến lược đánh chiếm An Nam mới được Chính phủ Pháp giao cho Phó đô đốc Hải quân Rigault de Genouilly đưa tàu vượt biển cùng quân lính và súng đạn thực hiện đánh chiếm vào Đà Nẵng với ý đồ đánh nhanh, thắng nhanh. Phó đô đốc Hải quân Rigault de Genouilly mượn cớ triều đình An Nam ngược đãi các giáo sĩ, nên chiều ngày 31/8/1858, liên quân Pháp và Tây Ban Nha huy động 14 chiến hạm và trên 2.350 quân đã bắt đầu kéo vào cảng Tiên Sa.
Đến sáng ngày 1/9/1858, Rigault gửi tối hậu thư cho quan Trấn thủ Đà Nẵng, Trần Hoàng buộc phải đầu hàng và hạn phúc đáp trong 2 giờ đồng hồ. Không thấy phúc đáp, Rigault ra lệnh pháo kích vào các cơ sở phòng thủ của quân triều đình An Nam quanh vịnh Đà Nẵng, Sơn Trà, các thành Điện Hải, An Hải.
Do hỏa lực của liên quân Pháp - Tây Ban Nha quá mạnh, lần lượt các đồn trú phòng thủ ở thành An Hải cùng các pháo đài Phòng Hải, Trấn Dương, các đồn Nhất, Nhì, Ba, Tư (các địa điểm trong TP Đà Nẵng ngày nay) bị quân Pháp đánh chiếm. Chỉ trong chưa quá 1 ngày, đến chiều ngày 1/9/1858, đội quân xâm lược Pháp đã chiếm giữ bán đảo Sơn Trà và thành An Hải. Từ đây Sơn Trà trở thành cứ điểm đồn trú chính của quân Pháp - Tây Ban Nha.
Ngay sau khi chiếm được bán đảo Sơn Trà và thành Điện Hải, liên quân Pháp - Tây ban Nha bắt đầu mở rộng đánh chiếm các vùng còn lại của Đà Nẵng và Quảng Nam. Với ý đồ khi đã chiếm hoàn toàn Đà Nẵng sẽ vượt đèo Hải Vân để đánh chiếm kinh thành Huế... Trong hơn 3 năm (1858 đến 1860), liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã bị quân dân nơi mảnh đất anh hùng này đánh bại.
Một số hình ảnh của khu mộ |
Hố chôn hàng ngàn hài cốt!
Sau khi đánh chiếm được Sơn Trà, liên quân Pháp - Tây Ban Nha tiến đánh tan phòng tuyến của quân ta ở xã Mỹ Thị. Ngày 6/10/1858, trong cuộc giao chiến dữ dội tại Cẩm Lệ, Thống chế Lê Đình Lý tử trận. Nhận thấy Đà Nẵng ngày càng nguy cấp, Vua Tự Đức lập tức cử Nguyễn Tri Phương đang làm Kinh lược sứ ở Lục tỉnh về làm Thống chế quân vụ Quảng Nam, điều Tổng đốc Phạm Thế Hiển ở Định Tường (Biên Hòa) về Đà Nẵng làm Tham tán quân vụ.
Tháng 12/1858, Nguyễn Tri Phương cùng Phạm Thế Hiển cho đắp phòng tuyến Liên Trì gồm một hệ thống đồn, lũy dài 3km dọc sông Hàn. Để tránh hỏa lực rất mạnh của liên quân Pháp, Nguyễn Tri Phương không chủ trương đánh chính diện, mà cho phục kích, thực hiện “vườn không, nhà trống” và cho đắp lũy dài từ Hải Châu vào tới Phúc Ninh, Thanh Giản, để bao vây liên quân Pháp ngoài bán đảo Sơn Trà.
Phòng tuyến Đà Nẵng được giữ vững, với chiến lược chiến tranh du kích, liên quân Pháp - Tây Ban Nha không thể tấn công mở rộng địa bàn. Kế hoạch giam chân quân Pháp của Nguyễn Tri Phương thành công. Lúc này, liên quân Pháp - Tây Ban Nha không chịu nổi với Lam sơn chướng khí, với điều kiện thời tiết khí hậu thất thường vùng cửa biển của bán đảo Sơn Trà dẫn đến dịch bệnh hoành hành, rồi lần lượt bỏ mạng.
Trong tư liệu lịch sử thể hiện, vào liên tiếp cuối năm 1958 và những ngày đầu năm 1959, Phó đô đốc De Genouilly liên tục gửi mật thư về mẫu quốc báo cáo nói rõ, số lính chết vì bị dịch bệnh đã ở mức “báo động”. Trong số 800 lính bộ binh, chỉ còn khoảng 500 người có thể cầm khí giới, nhưng không đủ sức để mở một cuộc hành quân... Vì thấy tình hình không lấy được Đà Nẵng, ngày 2/2/1859 Genouilly quyết định đem quân vào Nam đánh chiếm Vũng Tàu, Gia Định, chỉ để lại một số ít quân và vài chiến hạm giao cho Đại tá Hải quân Faucon ở lại Sơn Trà để giữ vùng đất đã chiếm được.
Sau khi chiếm được thành Gia Định, ngày 15/4/1859 Genouilly lại kéo quân trở ra Đà Nẵng, liên tiếp mở những đợt tấn công nhằm tiến ra chiếm kinh đô Huế.
Tuy nhiên, trong khoảng thời gian Genouilly kéo quân đi, Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển ra sức củng cố lại phòng tuyến, đặc biệt thành Điện Hải. Phòng tuyến này kéo dài 3km từ thành Điện Hải đến đồn Nại Hiên. Khi Genouilly quay lại đánh chiếm, quân ta dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương đã khiến kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp thất bại, hao tổn lực lượng, quân lính phần chết trận, phần chết dịch rất nhiều. Bán đảo Sơn Trà trở thành tử huyệt của liên quân Pháp - Tây Ban Nha.
Ngày 23/3/1860, liên quân Pháp buộc phải rút khỏi Đà Nẵng, để lại trên bán đảo Sơn Trà một hố chôn tập thể với hàng ngàn hài cốt đến bây giờ trở thành chứng tích với tên gọi đồi hài cốt mà người Pháp đặt tên “Ossuaire”.
Chuyện oan hồn nơi đất khách
Cụ Lê tâm sự, khu đồi bây giờ, may mắn nằm gần khu cảng Tiên Sa, ngày đêm xe cộ ầm ì và người từ nơi khác kéo đến buôn bán nên bớt thâm u. Tuy nhiên, lịch sử hơn 155 năm trước vẫn hiện hữu mỗi ngày bên cửa biển Đà Nẵng cho đến tận ngày nay. Đã có nhiều chuyện hoang đường về khu đồi hài cốt lính tây được cụ Lê, hay bà bán nước, lão ngư từ hơn 80 năm mưu sinh ở quanh núi Sơn Trà nhắc mãi.
“Có người tin, có người không, nhưng tôi vẫn muốn kể. Khi mới lên 6,7 tuổi, tôi theo ba mình lên núi Sơn Trà lấy củi bán và quét lá đen về ủ phân. Nghĩa là 70 năm về trước tôi đã thuộc làu đường đi, lối vào đi khu đồi hài cốt. Thế nhưng, mỗi lần buộc phải tới gần, tôi chỉ có cắm đầu chạy cho nhanh. Tôi luôn cảm nhận, có tiếng khóc than như ai oán phát ra từ bên trong những nấm mộ. Nhất là những hôm đi sớm tinh mơ hoặc chạng vạng tối…”, cụ Lê nhớ lại.
Cụ Lê dẫn chứng thêm đã nhiều người như bà Hân, bà Bảy, ông Trực (đều trên 70 tuổi, ngụ gần cảng Tiên Sa) trải nghiệm cảm giác như cụ. Tuy nhiên, hỏi đã gặp những oan hồn lính tây bao giờ chưa, ai nấy lại lắc đầu.
Suốt cả buổi chiều quanh Cảng Tiên Sa, tôi mang câu chuyện kể về đồi hài cốt đầy màu sắc ma mị đi tham khảo thêm các chứng nhân khác. Người già, người trẻ đều có chung câu trả lời: “thì có nghe, dù chưa chứng kiến bao giờ song không một ai phủ nhận. Mà đã là yếu tố tâm linh ở nghĩa địa, thôi không cần phải tìm hiểu rõ”. Nghe vậy, tôi bỏ cuộc, theo cụ Lê ra đứng trước biển. Cụ Lê bảo rằng, cứ làm vậy, lặng yên nghe tiếng gió rít gào thét để hiểu hơn âm thanh rờn rợn giữa đồi hài cốt hoang vu.