PV: Thời gian qua, công tác ứng dụng CNTT, CĐS của ngành BHXH Việt Nam, đặc biệt là việc thực hiện Đề án 06 (ĐA06) của Chính phủ đã đạt được những kết quả quan trọng, được Quốc hội, Chính phủ cũng như xã hội đánh giá cao. Trong các kết quả đó, đâu là những dấu ấn nổi bật, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, nhiệm vụ của Ngành?
Ông Nguyễn Thế Mạnh: Là cơ quan triển khai thực hiện các chính sách về BHXH, BHYT, BHTN, BHXH Việt Nam thường xuyên tương tác, giao dịch và phục vụ hầu hết người dân, DN nên việc ứng dụng CNTT, CĐS, thực hiện ĐA06 của Chính phủ được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của Ngành. Nhiệm vụ này có ý nghĩa rất quan trọng, giúp nâng cao chất lượng phục vụ tổ chức, cá nhân và tăng cường hiệu quả quản lý của ngành BHXH Việt Nam. Theo đó, cùng với cả hệ thống chính trị, toàn ngành BHXH Việt Nam đã nỗ lực, cố gắng, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, mang lại những thay đổi đột phá, góp phần kiến tạo và xây dựng ngành BHXH Việt Nam số theo đúng định hướng về Chính phủ số của Đảng và Nhà nước ta.
Một là, BHXH Việt Nam là một trong số đơn vị đầu tiên đã kết nối thành công với cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia về dân cư ngay khi được đưa vào vận hành chính thức. Trong quá trình triển khai, BHXH Việt Nam đã chủ động, tích cực phối hợp với các Bộ, Ngành liên quan triển khai các nhiệm vụ nhằm xây dựng, làm giàu CSDL quốc gia về bảo hiểm. Hiện nay, bảo hiểm đang quản lý hơn 91,74 triệu người tham gia, trong đó đã xác thực và đồng bộ với CSDL quốc gia về dân cư đạt tỷ lệ 94%.
Hai là, thời gian qua, không chỉ nỗ lực, phấn đấu làm tốt nhiệm vụ của mình trong xây dựng CSDL, hạ tầng công nghệ, đội ngũ cán bộ…BHXH Việt Nam với vai trò, trách nhiệm được Chính phủ giao là đơn vị chủ quản của CSDL quốc gia về bảo hiểm - một trong sáu CSDL quốc gia quan trọng, còn luôn đồng hành, phối hợp chia sẻ dữ liệu, hỗ trợ nhiều bộ ngành, địa phương (như Bộ TTTT, Bộ Tư pháp, Bộ Y tế, Bộ LĐTB&XH, Bộ GD&ĐT, Bộ Nội vụ…) vì mục tiêu chung. Trong đó, Ngành đã tích cực phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ LĐTB&XH… để triển khai hai nhóm thủ tục hành chính liên thông (Đăng ký khai sinh - đăng ký thường trú - cấp thẻ BHYT cho trẻ dưới 6 tuổi;Đăng ký khai tử - Xóa đăng ký thường trú - Hỗ trợ chi phí mai táng, Trợ cấp mai táng); dịch vụ công (DVC) trực tuyến “Giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp”… tạo nhiều thuận lợi cho người dân khi thực hiện các thủ tục về BHXH, BHYT, BHTN.
Bên cạnh đó, ngành BHXH Việt Nam cũng phối hợp chặt chẽ với ngành Công an, ngành Y tế trong công tác triển khai: sử dụng thẻ Căn cước công dân (CCCD) và ứng dụng định danh điện tử quốc gia (VNEID) phục vụ người dân đi khám chữa bệnh (KCB) BHYT; ứng dụng công nghệ sinh trắc tại cơ sở KCB và cơ quan BHXH các cấp; liên thông dữ liệu khám sức khỏe lái xe, giấy chứng sinh, giấy báo tử từ cơ sở KCB, Sổ Sức khỏe điện tử; đồng bộ, chia sẻ thông tin giúp Bộ GD&ĐT theo dõi, đánh giá tình hình việc làm của sinh viên sau khi ra trường. Tính đến nay, toàn bộ các cơ sở KCB BHYT trên toàn quốc đã triển khai KCB BHYT bằng CCCD gắn chip, với gần 50 triệu lượt tra cứu thông tin BHYT qua CCCD phục vụ làm thủ tục KCB BHYT, đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho người bệnh và cơ sở KCB BHYT.
Ba là, hoàn thành cung cấp DVC trực tuyến theo Quyết định số 422/QĐ-TTg ngày 04/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ lên Cổng DVC quốc gia, gồm các DVC: “Đăng ký tham gia đóng BHXH tự nguyện”; “Đăng ký đóng, cấp thẻ BHYT đối với người chỉ tham gia BHYT”; “Giải quyết hưởng BHXH một lần” (thuộc nhóm áp dụng thí điểm xác thực chữ ký số được tích hợp trong ứng dụng trên thiết bị di động để phục vụ cung cấp DVC trực tuyến) nhằm đơn giản hóa thành phần hồ sơ, cắt giảm thời gian, chi phí, tạo thuận lợi tối đa phục vụ người dân, DN khi giao dịch với cơ quan BHXH.
Bốn là, tiếp tục nâng cấp, triển khai hiệu quả ứng dụng VssID - BHXH số; đồng thời triển khai kết nối, tích hợp tài khoản định danh điện tử (tài khoản VNeID) trên ứng dụng VssID của BHXH Việt Nam, hướng tới cho phép hơn 50 triệu người dân đang có tài khoản VNeID có thể truy cập, sử dụng ứng dụng VssID.
Năm là, triển khai đồng bộ nhiều giải pháp bảo đảm an toàn thông tin mạng (ATTT) như ban hành quy định, quy chế về công tác ATTT; triển khai đầy đủ các giải pháp kỹ thuật, phương án bảo đảm ATTT theo cấp độ; tổ chức diễn tập và hội nghị ATTT hằng năm; thực hiện kiểm tra, đánh giá và giám sát các hệ thống thông tin của Ngành; thành lập Đội Ứng cứu sự cố ATTT mạng ngành BHXH Việt Nam...để chủ động ứng phó từ sớm, xử lý, ngăn chặn kịp thời các cuộc tấn công mạng.
Có thể nói, với những kết quả đạt được, công tác CĐS của ngành BHXH Việt Nam đã đi đúng hướng, đúng trọng tâm theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Điều này còn được thể hiện rõ, khi ngành BHXH Việt Nam liên tục được đánh giá là một trong những bộ, ngành dẫn đầu trong lĩnh vực CĐS. Đây là tiền đề quan trọng để toàn Ngành tiếp tục triển khai thành công các nhiệm vụ được giao trong thời gian tới với quyết tâm kiến tạo và xây dựng thành công ngành BHXH Việt Nam số, theo đúng định hướng về Chính phủ số, đáp ứng yêu cầu đảm bảo an sinh xã hội quốc gia, phục vụ ngày càng tốt hơn người dân và DN.
PV: Những kết quả đạt được trong công tác ứng dụng CNTT, CĐS đã mang lại những thay đổi mang tính “bước ngoặt” trong mọi hoạt động của ngành BHXH Việt Nam. Thưa ông, những kết quả này đã tác động, đem tới hiệu quả như thế nào trong hoạt động quản lý và nghiệp vụ của Ngành, cũng như mang lại nhiều lợi ích cho người tham gia, thụ hưởng?
Ông Nguyễn Thế Mạnh: Với quan điểm xuyên suốt "Lấy người dân, DN làm chủ thể, trung tâm phục vụ", tất cả các kết quả, nhiệm vụ của ngành BHXH Việt Nam đều nhằm mang tới những lợi ích tối ưu, tốt hơn cho người tham gia, thụ hưởng các chính sách BHXH, BHYT, BHTN. Công tác CĐS của Ngành đã được thực hiện mạnh mẽ, toàn diện, tạo chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức của người đứng đầu đến từng cán bộ; thấy được tầm quan trọng của công tác ứng dụng CNTT, CĐS với hoạt động của Ngành. Theo đó, các đơn vị trong toàn Ngành đã chủ động, quyết liệt thực hiện chuyển đổi số, chuyển từ phương thức quản lý thủ công sang hiện đại, tác phong làm việc chuyển từ hành chính sang phục vụ nhằm tăng sự hài lòng, phục vụ người tham gia BHXH, BHYT ngày càng tốt hơn.
Các lĩnh vực hoạt động của Ngành đều được số hóa và ứng dụng CNTT với gần 30 hệ thống ứng dụng CNTT quản lý các quy trình nghiệp vụ, hơn 20 nghìn tài khoản trong Ngành thường xuyên truy cập, khai thác và sử dụng để thực hiện các nghiệp vụ của Ngành. Hệ thống thông tin giám định BHYT của Ngành đang kết nối với gần 13.000 cơ sở KCB BHYT trên toàn quốc. Đây là công cụ hiệu quả, góp phần giúp công tác KCB BHYT công khai, minh bạch, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người tham gia BHYT. Hằng năm, Hệ thống Thông tin giám định BHYT cùng Hệ thống giao dịch BHXH điện tử đã tiếp nhận khoảng 300 triệu hồ sơ giao dịch trực tuyến. Thực tế cho thấy, việc giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH không chỉ góp phần giảm tải áp lực giải quyết hồ sơ, thủ tục cho cơ quan BHXH, mà còn giúp các tổ chức, cá nhân tiết kiệm được nhiều thời gian, công sức và chi phí đi lại khi giao dịch với cơ quan BHXH.
Đáng chú ý, 100% thủ tục của Ngành đã được cung cấp DVC trực tuyến toàn trình và tích hợp trên Cổng DVC BHXH Việt Nam; đồng thời từng bước tích hợp trên Cổng DVC quốc gia. Gần như tất cả các hoạt động của Ngành, cũng như các giao dịch của người người dân, DN với cơ quan BHXH đã được thực hiện trên môi trường số. Do đó, không chỉ giúp người dân, DN có thể giao dịch với cơ quan BHXH mọi lúc, mọi nơi mà còn có thể dễ dàng theo dõi tiến độ xử lý hồ sơ, kiểm tra đối chiếu dữ liệu tham gia, thụ hưởng chính sách. Nhờ đó, tính minh bạch của thông tin, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát quản lý, sử dụng quỹ BHXH, BHYT, BHTN được nâng cao rõ rệt...
BHXH Việt Nam cũng đã tích cực triển khai, đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào hoạt động thanh tra, kiểm tra của Ngành theo phương thức điện tử kết hợp với phương pháp thanh tra, kiểm tra truyền thống giúp tăng chất lượng, giảm nhân lực, thời gian thanh tra, kiểm tra (giảm khoảng 48%, từ 20 giờ xuống còn 10,5 giờ). Đồng thời, đem lại hiệu quả rõ rệt trong công tác thu, phát triển người tham gia, giảm nợ đóng, nhất là giảm thiểu tình trạng lạm dụng, trục lợi quỹ BHXH, BHYT.
Đặc biệt, Ngành đã đưa vào triển khai ứng dụng “VssID - BHXH số” trên nền tảng thiết bị di động. Hiện đã có hơn 30 triệu tài khoản sử dụng ứng dụng, với hơn 4 triệu lượt sử dụng hình ảnh thẻ BHYT trên ứng dụng để đi KCB trên toàn quốc. Có thể thấy, ứng dụng VssID đã đem đến thành công bước đầu trong công tác CĐS của ngành BHXH Việt Nam theo lộ trình xây dựng Chính phủ số ở Việt Nam. Với ứng dụng này, người dùng có thể quản lý, kiểm soát các thông tin về quá trình tham gia - thụ hưởng các chính sách BHXH, BHYT, BHTN; thực hiện các giao dịch với cơ quan BHXH; sử dụng hình ảnh thẻ BHYT trên ứng dụng VssID để KCB BHYT…một cách tiện lợi, nhanh chóng, dễ dàng, tiết kiệm được thời gian và chi phí đi lại.
Tại Hội nghị Ban Chấp hành Hiệp hội An sinh xã hội ASEAN (ASSA) lần thứ 38, BHXH Việt Nam đã vinh dự được ASSA trao tặng giải thưởng “Thực tiễn hiệu quả” tại hạng mục công nghệ thông tin cho ứng dụng “VssID - Bảo hiểm xã hội số” trên điện thoại thông minh. Điều đó cho thấy sự quan tâm, đánh giá cao của các tổ chức an sinh xã hội quốc tế đối với giải pháp công nghệ mang lại nhiều tiện ích cho người tham gia này.
Ngoài việc sử dụng hình ảnh thẻ BHYT trên ứng dụng VssID để đi KCB, người dân còn có thể sử dụng thẻ CCCD gắn chíp, ứng dụng định danh điện tử quốc gia (VNeID) để thay thế thẻ BHYT giấy. Việc làm này không chỉ góp phần giảm bớt áp lực cho nhân viên y tế mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi đi KCB BHYT nên đã được đông đảo người dân và các cơ sở KCB ghi nhận, ủng hộ.
Hệ thống chăm sóc khách hàng của ngành BHXH Việt Nam cũng được quan tâm đổi mới theo hướng hiện đại, thân thiện với nhiều kênh tư vấn, hỗ trợ người tham gia như: Hệ thống Tổng đài hỗ trợ khách hàng; hệ thống Chatbot hỗ trợ khách hàng (cung cấp thông tin đóng, hưởng BHXH, BHYT; trả lời chính sách BHXH, BHYT tự động bằng trí tuệ nhân tạo, tăng tính tương tác cao với người tham gia…); thiết lập Fanpage Facebook/ Zalo OA truyền thông trên hệ thống mạng xã hội… mang lại lợi ích thiết thực cho người tham gia, thụ hưởng chính sách BHXH, BHYT.
Có thể nói, những kết quả đạt được trong công tác CĐS, thực hiện ĐA06 đã không chỉ góp phần nâng cao chất lượng phục vụ tổ chức, cá nhân mà còn tăng cường hiệu quả quản lý của Ngành. Qua đó, góp phần xây dựng ngành BHXH Việt Nam hiện đại, chuyên nghiệp, vì sự hài lòng của người dân, DN theo đúng tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW của BCH Trung ương khóa XII đã đề ra.
PV: Những dấu ấn trong kết quả triển khai công tác CĐS lĩnh vực BHXH, BHYT phải nói là rất đặc biệt. Vậy, đâu sẽ là những bài học, giải pháp trọng tâm để ngành BHXH Việt Nam tiếp tục phát huy kết quả trong thời gian tới?
Ông Nguyễn Thế Mạnh: Ngày 15/6/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 942/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Qua đánh giá mục tiêu của Kế hoạch này đến năm 2025, BHXH Việt Nam cơ bản đã đạt được các mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta chủ quan, hay thỏa mãn với những gì đã có. Công tác CĐS của ngành BHXH Việt Nam hiện nay là yêu cầu bắt buộc cần làm ngay, làm toàn diện, là hướng đi chiến lược nhằm giúp Ngành phát triển bền vững trong kỷ nguyên 4.0.
Ngay khi có chỉ đạo của Chính phủ, BHXH Việt Nam đã thành lập BCĐ cải cách hành chính và BCĐ Chuyển đổi số, Tổ công tác triển khai ĐA06; Ban cán sự đảng BHXH Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 362-NQ/BCSĐ ngày 12/5/2023 về tăng cường thực hiện ĐA06, theo đó, BHXH Việt Nam ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 362-NQ/BCSĐ, trong đó nêu rõ các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, phân công trách nhiệm đối với từng cơ quan, đơn vị trực thuộc, yêu cầu chất lượng (sản phẩm), tiến độ rõ ràng, nhằm đảm bảo hoàn thành tốt nhất các nhiệm vụ được giao của ngành BHXH Việt Nam tại ĐA06.
Đồng thời, BHXH Việt Nam cũng đang phối hợp với các bộ, ngành, các chuyên gia trong nước và quốc tế để xây dựng Đề án tổng thể về CĐS của Ngành. Ở giai đoạn tiếp theo từ năm 2023 đến 2025 và định hướng đến năm 2030, BHXH Việt Nam quyết tâm thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ và toàn diện, lấy người tham gia, thụ hưởng chế độ, chính sách BHXH, BHYT làm trung tâm. Trong đó, tập trung củng cố, phát huy thế mạnh của CSDL sẵn có luôn được làm giàu; tích cực phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xác thực, chia sẻ, liên thông dữ liệu phục vụ công tác quản lý và cung cấp DVC trực tuyến; phát triển ngành BHXH Việt Nam số với nguồn nhân lực số chất lượng cao; đưa vào thử nghiệm và áp dụng các công nghệ mới như Blockchain, Big Data, AI để mang lại hiệu quả trong quản lý, nâng cao trải nghiệm của tổ chức, cá nhân...Tiếp tục tạo ra ngày càng nhiều tiện ích, dịch vụ mang lại lợi ích thiết thực cho người dân, DN với mục tiêu luôn được BHXH Việt Nam xác định “chuyển đổi số là nhiệm vụ quan trọng, then chốt để Ngành phục vụ tốt nhất người tham gia, thụ hưởng chính sách”, xứng đáng với niềm tin của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Nhân dân.
Trân trọng cám ơn ông!