Ảnh minh họa |
Luật sư Ngô Khắc Lễ (Nhóm chuyên gia rà soát), cho biết, qua rà soát các tiêu chí: Tính minh bạch - Tính hợp lý - Tính thống nhất và Tính khả thi, BLHH đã có nhiều điểm bất cập, trong đó, Điều 43 (Bảo đảm tài chính cho yêu cầu bắt giữ tàu biển) đã không đạt được tiêu chí về tính minh bạch.
Điều 43 quy định: “Để thực hiện việc bắt giữ tàu biển, người yêu cầu bắt giữ phải bảo đảm tài chính theo hình thức và giá trị do Tòa án quy định tương đương với thiệt hại có thể phát sinh do việc yêu cầu bắt giữ tàu biển”. Tuy nhiên trong thực tế, việc xác định số tiền để bảo đảm tài chính gặp rất nhiều khó khăn do không có quy định cụ thể về việc xác định giá trị này.
Điểm d Điều 10 của Nghị định số 57/2010/NĐ-CP ngày 25/5/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh thủ tục bắt giữ tàu biển, quy định “Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết việc bảo đảm chi phí thực hiện bắt giữ tàu biển từ NSNN”, tuy nhiên cho đến nay, Bộ này vẫn chưa có hướng dẫn thực hiện, gây ảnh hưởng và khó khăn trong quá trình thực hiện bắt giữ tàu biển theo lệnh của Toà án. Theo đề xuất của nhóm rà sóat, cần có quy định về việc xác định giá trị bảo đảm tài chính làm cơ sở để Tòa án ra quyết định bắt giữ và quy định chi tiết việc bảo đảm chi phí thực hiện bắt giữ tàu biển từ NSNN.
Còn bà Nguyễn Thu Hường, Cty CP Vận tải Biển Bắc (Nosco ) thì cho rằng quy định này còn thiếu tính khả thi bởi do thực tế giá trị tàu thường lớn (vài triệu USD) nên không thể có khoản đặt cọc nào được thực hiện dù phía yêu cầu bắt giữ đã xuất trình đủ các tài liệu chứng minh quyền lợi của mình bị xâm hại.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 57/2010/NĐ-CP thì chi phí thực hiện bắt giữ tàu biển bao gồm chi phí thực hiện việc bắt giữ tàu biển theo quyết định của Tòa án, chi phí giám sát tàu biển trong thời gian bị bắt giữ và chi phí truy đuổi tàu biển (nếu có). Chủ tàu hoặc người yêu cầu có trách nhiệm thanh toán chi phí này trừ một số các trường hợp quy định NSNN phải chi trả.
Hiện nay, để thực hiện việc giao quyết định bắt giữ và thả tàu biển theo trình tự, thủ tục quy định tại Điều 7 và Điều 12 Nghị định 57/2010/NĐ-CP, Cảng vụ hàng hải phải cho ca nô chở cán bộ ra tàu. Đối với các tàu neo tại khu neo Nhà Bè thì chi phí cho hai lần ca nô đi, về hết khoảng 5 triệu đồng (tiền xăng dầu, khấu hao tài sản). Với các tàu ở khu neo Thiềng Liềng, khu công nghiệp Hiệp Phước hết khoảng 10 triệu đồng. Với các tàu bị bắt giữ khi đã bốc xếp xong hàng hóa, nhằm làm giảm chí phí thường chủ tàu, người khai thác, người thuê tàu đề nghị cảng vụ cho phép di chuyển các khu neo đậu chờ giải quyết. Mặt khác, về phía cảng cũng muốn điều động tàu đang bị bắt giữ ra khu neo để có cầu bến trống khai thác. Tuy nhiên, Biên phòng cửa khẩu cảng Sài Gòn cho rằng theo quy định hiện nay Biên phòng chỉ bố trí cán bộ giám sát trong trong trường hợp liên quan đến an ninh quốc gia, còn các trường hợp khác phải trả chi phí giám sát, chi phí thuê ca nô chở cán bộ ra tàu thì Biên phòng mới bố trí người.
Theo bà Hương, để thực hiện bắt giữ và thả tàu biển của cảng vụ và cơ quan QLNN tại cảng được tốt hơn cần có quy định chi tiết để thu các khoản phí trên và cần có quy định mọi chi phí cho Tòa án, Cảng vụ, Biên phòng, Thi hành án, hoặc các cơ quan khác cần được thanh toán đầy đủ trước khi ra quyết định thả tàu biển bị bắt giữ.
Khoản 2 Điều 11 của Nghị định 57/2010/NĐ-CP quy định trường hợp chủ tàu, người khai thác tàu không còn khả năng cung cấp tài chính duy trì hoạt động của tàu, Cảng vụ thực hiện việc bắt giữ tàu biển có trách nhiệm cung cấp tài chính bảo đảm duy trì hoạt động cần thiết của tàu. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này cũng gặp nhiều khó khăn do chưa có hướng dẫn chi tiết. Ngoài ra, không phải Cảng vụ nào cũng có nguồn thu để có thể cung cấp tài chính duy trì hoạt động cần thiết của tàu.
Theo nhóm rà soát, sau một thời gian thực hiện, BLHH 2005 đã bộc lộ một số vấn đề cần sớm nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung, góp phần làm cho Bộ luật trở thành công cụ hữu hiệu hơn trong việc quản lý và hoạt động hàng hải. Cụ thể :
1. Không quy định hoặc quy định chưa rõ ràng, chưa hợp lý về một số vấn đề, khái niệm, định nghĩa dẫn đến việc DN khó hoặc không thể thực hiện và dễ xảy ra tranh chấp.
2. Cách sắp xếp chưa hợp lý về một số điều làm cho cách hiểu không thống nhất có thể gây thiệt hại cho DN do phải tăng trách nhiệm không đáng phải chịu.
3. Còn có mâu thuẫn giữa quy định của Bộ luật và văn bản dưới luật có thể gây tác động không tốt về môi trường kinh doanh trong lĩnh vực hàng hải. |
Thanh Thanh