Tờ báo này viết, quốc gia Đông Nam Á Việt Nam đã nổi lên như một trung tâm đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong cuộc đua trở thành Con hổ châu Á, FDI của Việt Nam đạt trung bình hơn 6% GDP. Theo chiến lược gia Ruchir Sharma của Ngân hàng đầu tư đa quốc gia Mỹ và công ty dịch vụ tài chính Morgan Stanley, đây là tỷ lệ cao nhất so với bất kỳ quốc gia mới nổi nào.
Dữ liệu kinh tế gần đây của Việt Nam cho thấy, xuất khẩu tăng 18%, xuất khẩu máy tính/linh kiện tăng 26% và xuất khẩu máy móc/phụ kiện tăng 63%.
Trong vài tuần qua, các quốc gia như Ấn Độ, Indonesia và Bangladesh xuất hiện những bằng chứng cho thấy cuộc chạy đua trở thành công xưởng tiếp theo của thế giới, sau Trung Quốc. Để làm cho các quốc gia trở nên hấp dẫn hơn, Ấn Độ và Indonesia đã thúc đẩy cải cách luật lao động, Bangladesh được cho là đang đàm phán 17 hiệp định thương mại tự do và ưu đãi.
Thành công kinh tế của các quốc gia như Trung Quốc và Singapore một phần là nhờ vào nguồn vốn FDI. Trung Quốc đã chứng kiến sự gia tăng vốn FDI từ 11,15 tỷ USD năm 1992 lên mức cao nhất là 290 tỷ USD vào năm 2013. Khi chi phí lao động ở nước này bắt đầu cao hơn khiến các nhà đầu tư quay sang các nước châu Á khác.
Chính sách đầu tư thân thiện với doanh nghiệp, khu công nghiệp, nguồn cung lao động trẻ (60% dân số) dồi dào khiến Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư.
“Kể từ đó, quốc gia này đã chứng kiến tốc độ tăng trưởng hàng năm là 10,4% và mức cao kỷ lục của năm ngoái là 16,12 tỷ đô la Mỹ - tăng 81% nói chung”, tờ EurAsian Times viết.
Ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng COVID, nền kinh tế đất nước đang ở trong tình trạng tốt vì chính phủ đã áp dụng các biện pháp giảm thuế, hoãn nộp thuế và tiền sử dụng đất cho các doanh nghiệp, sửa đổi luật đầu tư và đạt được thỏa thuận thương mại EVFTA với Liên minh châu Âu (EU).
Bắt đầu từ tháng 7/2020, EU đã dỡ bỏ 85% thuế quan đối với hàng hóa Việt Nam, cắt giảm dần phần còn lại trong vòng 7 năm tới, trong khi vốn FDI trị giá trên 12 tỷ USD được đăng ký từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2020.