Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2009, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2010

Báo cáo số 125/BC-UBND ngày 23/11/2009

Phần thứ nhất
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ  PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2009

I. Hoạt động chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh
Năm 2009 là năm tiếp nối những khó khăn của sự khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới, tiếp tục ảnh hưởng và tác động làm suy giảm nền kinh tế trong nước làm cho sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu và đầu tư giảm sút, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, việc làm người lao động và nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Để giải quyết và khắc phục có hiệu quả các khó khăn trên, ngay từ đầu năm UBND tỉnh kịp thời chỉ đạo triển khai đồng bộ các giải pháp chủ yếu điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, trên cơ sở tiếp tục phát huy những thành quả về kinh tế - xã hội của năm trước, các cấp, các ngành trong tỉnh để phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong tỉnh đồng sức phấn đấu thực hiện hoàn thành kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2009; tích cực thực hiện các giải pháp của Chính phủ chuyển hướng ưu tiên từ “kiềm chế lạm phát” sang chủ động “ngăn chặn suy giảm kinh tế gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và phát triển bền vững”; tăng cường phân cấp và phân rõ trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt các Nghị quyết của Cấp uỷ và HĐND tỉnh; thực hiện có trọng tâm, trọng điểm bằng các giải pháp cụ thể như: tăng cường công tác quy hoạch, phát huy hiệu quả cải cách hành chính thu hút đầu tư, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, triển khai kịp thời và hiệu quả chính sách về nhà ở, nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài nguyên khoáng sản; tập trung chỉ đạo phát triển sản xuất kinh doanh, kích cầu tiêu dùng và hỗ trợ người nghèo, các đối tượng gặp khó khăn... và tập trung các nguồn lực nhằm thực hiện tốt chủ đề “Tập trung phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, trong đó xây dựng hạ tầng giao thông là khâu đột phá; tiếp tục đẩy mạnh công tác bồi thường giải phóng mặt bằng và cải cách hành chính để thu hút đầu tư”, với phương châm “năng động, sáng tạo, sát tình hình và hiệu quả” để phấn đấu thực hiện tốt các nhiệm vụ, mục tiêu trong năm 2009.
Với các giải pháp tích cực, triển khai kịp thời và hiệu quả các chỉ đạo của Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, UBND tỉnh đã tổ chức nhiều cuộc làm việc, báo cáo trực tiếp với Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương và các tỉnh bạn để tăng cường các giải pháp chỉ đạo, điều hành, thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo và điều hành thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng; đã chỉ đạo các ngành chuyên môn xây dựng và trình HĐND tỉnh ban hành nhiều nghị quyết tại các kỳ họp trong năm 2009, thống nhất chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quản lý và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương( ).
Công tác chỉ đạo điều hành UBND tỉnh luôn phát huy tinh thần đoàn kết, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trí tuệ tập thể và vai trò cá nhân lãnh đạo. Duy trì chế độ họp UBND tỉnh hàng tháng, quý để chỉ đạo, quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền, đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. UBND tỉnh đã đảm bảo chế độ báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương theo đúng quy định và thẩm quyền.
Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, các Ủy viên UBND tỉnh thực hiện tốt nhiệm vụ được phân công phụ trách về ngành, lĩnh vực và tình hình thực hiện nhiệm vụ của các huyện, thành phố, thị xã. Duy trì chế độ họp giao ban hàng tuần giữa Chủ tịch, các Phó Chủ tịch UBND tỉnh và Văn phòng UBND tỉnh, một số Sở, ngành liên quan để bàn, thống nhất các nội dung chỉ đạo, điều hành và giải quyết các vấn đề phát sinh vướng mắc của ngành, địa phương, đơn vị. Hoạt động chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh cũng như chính quyền các cấp được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các chương trình, đề án, dự án, công trình trọng điểm; đồng thời tăng cường hoạt động kiểm tra, nắm bắt tình hình cơ sở, phát hiện và xử lý kịp thời những vướng mắc, giúp các đơn vị, địa phương thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội. 
II. Kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2009
1.    Các chỉ tiêu chủ yếu:
Kinh tế Thái Nguyên với đặc điểm là không có độ mở cao, phụ thuộc không nhiều vào xuất khẩu và tỷ trọng sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thấp hơn so với bình quân chung cả nước nên kinh tế trên địa bàn tỉnh bị ảnh hưởng nhẹ hơn bình quân cả nước. Mặt khác, với sự năng động của các cấp chính quyền đã chủ động theo sát tình hình, phân tích các diễn biến, tiếp thu các ý kiến chỉ đạo, đóng góp, đề cao trách nhiệm, quyết liệt chỉ đạo điều hành thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra và với nhiều nỗ lực cố gắng, đoàn kết phấn đấu của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã tổ chức thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội và duy trì được nhịp độ phát triển.
Kinh tế tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng cao. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Tổng sản phẩm trong tỉnh (theo giá thực tế) ước đạt 16.488,85 tỷ đồng. Trong đó, khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 40,42%; khu vực dịch vụ chiếm 36,74%; khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 22,85%. GDP bình quân đầu người ước đạt 14,6 triệu đồng/người/năm, tăng 2,5 triệu đồng/người so với năm 2008. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; văn hoá, xã hội đạt được nhiều tiến bộ; an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững. Cơ bản các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra:
1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) trên địa bàn ước đạt 9%, bằng 100% kế hoạch điều chỉnh.
2. GDP bình quân đầu người năm 2009 ước đạt 14,6 triệu đồng, vượt kế hoạch và tăng 2,5 triệu đồng/người so với năm 2008.
3. Tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 1.317 tỷ đồng, đạt 115% so với dự toán, tăng 18,8% so với năm trước. 
4. Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định 1994) trên địa bàn ước đạt 9.950 tỷ đồng, bằng 102,6% kế hoạch điều chỉnh, tăng 13,7% so với năm trước.
5. Giá trị xuất khẩu trên địa bàn ước đạt 70 triệu USD, đạt 100% kế hoạch; trong đó, xuất khẩu địa phương ước đạt 58,63 triệu USD, đạt 117,2% kế hoạch.
6. Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng 4,02% so với năm 2008, đạt mục tiêu kế hoạch.
- Tổng sản lượng lương thực có hạt, đạt trên 408 nghìn tấn, đạt mục tiêu kế hoạch.
- Giá trị sản xuất trên 1ha diện tích đất nông nghiệp trồng trọt đạt 47 triệu đồng, đạt mục tiêu kế hoạch.
- Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi đạt 625 tỷ đồng, tăng 12,7% so với năm 2008 và vượt mục tiêu kế hoạch tăng 8%.
- Diện tích trồng rừng mới trên địa bàn: 6.000 ha; trong đó, địa phương trồng rừng tập trung (theo dự án 661) là: 5.044 ha, đạt 112% kế hoạch.
- Diện tích trồng chè mới, cải tạo và phục hồi: 608 ha, đạt 101,3% kế hoạch.
- Nâng tỷ lệ độ che phủ rừng lên: 48,6%, thấp hơn 0,4% so với kế hoạch.
- Cung cấp nước hợp vệ sinh cho dân số nông thôn đạt: 84% đạt mục tiêu kế hoạch.
7. Nhóm các chỉ tiêu xã hội:
- Mức giảm tỷ suất sinh thô trong năm: 0,2%o, đạt mục tiêu kế hoạch.
- Tạo việc làm mới cho 16.000 lao động, trong đó xuất khẩu 1.500 lao động, đạt mục tiêu kế hoạch.
- Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 19,3%, đạt mục tiêu kế hoạch là giảm xuống dưới 20%.
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo trong năm: 2,75% vượt mục tiêu kế hoạch (toàn tỉnh còn 15%).
8. Đảm bảo an ninh trật tự xã hội và công tác quân sự địa phương và hoàn thành 100% các chỉ tiêu đề ra.
2. Kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên các lĩnh vực cụ thể, như sau:
2.1. Về lĩnh vực kinh tế:
Tổng sản phẩm trong tỉnh năm 2009 (theo giá so sánh 1994) ước đạt 5.732,2 tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2007. Trong đó, khu vực nông lâm nghiệp thuỷ sản ước đạt 1.291,3 tỷ đồng, tăng 3,08%; khu vực công nghiệp và xây dựng ước đạt 2.506,1 tỷ đồng, tăng 11,48%; khu vực dịch vụ ước đạt 1.934,7 tỷ đồng, tăng 10,06% so với năm trước.
Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định 1994) trên địa bàn ước đạt 9.950 tỷ đồng, bằng 102,6% kế hoạch điều chỉnh( ). Tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn có nhiều biến động: sản xuất công nghiệp trong quý I/2009 giảm sút do suy thoái kinh tế từ cuối năm 2008; sang quý II và quý III/2009 sản xuất dần phục hồi và tăng khá cao so với cùng kỳ, nhưng sang đầu quý IV/2009 do ảnh hưởng sắt thép nhập khẩu với giá thấp hơn thị trường trong nước đã tạo sức ép khiến giá bán thép trong nước phải điều chỉnh giảm, đồng thời mức tiêu thụ thép cán các loại từ cuối tháng 9 đầu tháng 10 có xu hướng cầm chừng nên tính chung sản xuất công nghiệp quý IV mặc dù vẫn tăng nhưng không đạt mức tăng cao như các tháng trong quý III; tính chung cả năm giá trị sản xuất chỉ tăng 13,7% so với năm trước.
Hoạt động kinh doanh thương mại và dịch vụ trên địa bàn đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất và tiêu dùng xã hội; các mặt hàng chính sách phục vụ nhân dân miền núi, vùng cao đảm bảo chất lượng và cung ứng kịp thời. Công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường được duy trì thường xuyên. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ xã hội năm 2009 ước đạt 7.637 tỷ đồng, tăng 19,7% so với năm trước( ). Chỉ số giá tiêu dùng 10 tháng đầu năm 2009 tăng 2,86% so với tháng 12/2008.
Mặc dù sản xuất đã hồi phục nhưng tình hình xuất khẩu trên địa bàn vẫn gặp nhiều khó khăn, bên cạnh mặt hàng chè và dụng cụ y tế có giá trị và lượng xuất khẩu tăng còn hầu hết các mặt hàng xuất khẩu năm nay đều giảm nhiều so với cùng kỳ; giá trị xuất khẩu trong năm ước đạt 70 triệu USD bằng 100% kế hoạch, giảm 41,6% so với cùng kỳ; giá trị nhập khẩu ước đạt 160 triệu USD, giảm 23% so với cùng kỳ năm trước( ). Hoạt động kinh doanh vận tải trên địa bàn cơ bản đáp ứng được nhu cầu phục vụ sản xuất và đi lại của nhân dân, tiếp tục phát huy và nâng cao chất lượng hoạt động của các tuyến xe buýt nâng cao văn minh đô thị và phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân đặc biệt là học sinh, sinh viên, cán bộ, công nhân viên chức( ). Hệ thống bưu chính, viễn thông, thông tin truyền thông tiếp tục được đầu tư, nâng cấp và mở rộng, từng bước đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân( ).
- Thực hiện chủ đề của năm về phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, trong đó phát triển hạ tầng giao thông là khâu đột phá, các Sở, ngành và các địa phương thực hiện kịp thời công tác bồi thường giải phóng mặt bằng cho các công trình, dự án trọng điểm, các dự án giao thông trên địa bàn, thông qua công tác tuyên truyền vận động đã nhận được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân các địa phương; trong thời gian qua nhân dân đã tự tháo dỡ tài sản, giải phóng mặt bằng, hiến trên 600.000m2 đất; các doanh nghiệp, nhà đầu tư đã ủng hộ hàng tỷ đồng phục vụ làm các tuyến đường giao thông nông thôn. Các chủ đầu tư các dự án, công trình giao thông tích cực đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện các thủ tục đầu tư, đẩy nhanh tiến độ thi công theo kế hoạch nhằm phát triển hạ tầng giao thông trên địa bàn( ).
Tổ chức bàn giao mặt bằng sạch đã thực hiện giải phóng mặt bằng dự án đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên cho chủ đầu tư để tổ chức khởi công trong tháng 11/2009. Tập trung hoàn hiện các thủ tục đầu tư báo cáo Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải theo quy định để đảm bảo khởi công dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 3 cũ trong Quý 1 năm 2010.
Đẩy mạnh công tác lập quy hoạch khu du lịch trọng điểm Quốc gia Hồ Núi Cốc, quy hoạch khu đô thị phía Tây thành phố Thái Nguyên, quy hoạch ATK liên hoàn. Thực hiện các thủ tục trình Thủ tướng Chính phủ và đã được phê duyệt bổ sung vào quy hoạch các khu công nghiệp Quốc gia gồm: khu công nghiệp Tây Phổ Yên, Nam Phổ Yên, Điềm Thụy - Phú Bình, khu công nghiệp công nghệ cao Quyết Thắng, thành phố Thái Nguyên với diện tích trên 1000 ha; đang làm thủ tục trình các Bộ, ngành Trung ương về Khu tổ hợp công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ Yên Bình.
Trong điều kiện gặp nhiều khó khăn từ nền kinh tế nhưng bằng nhiều nỗ lực và phát huy hiệu quả của cải cách thủ tục hành chính của cả nước nói chung và ở tỉnh Thái Nguyên nói riêng; hiệu quả cơ chế “một cửa, một cửa liên thông” tỉnh Thái Nguyên đã tiếp và làm việc với nhiều tổ chức, đoàn doanh nhân trong và ngoài nước đến tìm hiểu cơ hội đầu tư vào tỉnh; đặc biệt trong tháng 1/2009 đã tổ chức thành công “Hội nghị xúc tiến đầu tư đặc biệt vào tỉnh Thái Nguyên”, tổ chức xúc tiến đầu tư tại Châu Âu, Hàn Quốc, Trung Quốc... Tính từ năm 2007 đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có trên 200 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký trên 100 nghìn tỷ đồng( ); hiện nay, các cơ quan chuyên môn, các địa phương đang tích cực hỗ trợ các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án đã được trao giấy chứng nhận đầu tư và thực hiện các thủ tục cho các dự án đã ký kết hợp tác đầu tư như: hoàn thiện thủ tục chấp thuận địa điểm, cấp giấy chứng nhận đầu tư, thuê tư vấn, khảo sát thiết kế...
Tạo điều kiện cho 433 doanh nghiệp thành lập mới làm tăng thêm năng lực sản xuất góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm việc làm thu hút nhiều lao động của địa phương( ).
Tổng giá trị sản xuất xây dựng của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh (bao gồm cả loại hình xây dựng cá thể, hộ gia đình) ước tính cả năm 2009 đạt 4.744 tỷ đồng, tăng 15,6% so với cùng kỳ; trong đó, các doanh nghiệp nhà nước (bao gồm cả các đơn vị quốc phòng) thực hiện chiếm tỷ trọng 14,5% và đạt tốc độ tăng 19,2%; còn lại hầu hết do khối ngoài nhà nước thực hiện và đạt tốc độ tăng 15% (riêng khối doanh nghiệp đạt tốc độ tăng 23,5% và chủ yếu thực hiện xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng và xây dựng chuyên dụng( ).
- Về hoạt động tài chính: các cấp chính quyền, hệ thống Ngân hàng các cấp đã chỉ đạo quyết liệt, bám sát mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế trên địa bàn, tập trung nguồn vốn huy động, triển khai tuyên truyền và thực hiện các chính sách của Chính phủ về hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn để phát triển sản xuất - kinh doanh.
Hoạt động tín dụng: tổng nguồn vốn huy động từ nền kinh tế và dân cư tính đến ngày 31/12/2009, ước đạt 11.000 tỷ đồng, tăng 24% so với 31/12/2008, tổng dư nợ cho vay của các thành phần kinh tế trên địa bàn ước đạt 15.000 tỷ đồng, tăng 26,7% so với 31/12/2008.
Triển khai thực hiện các chính sách kích cầu của Chính phủ, tính đến ngày 30/9/2009, hệ thống tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh đã cho vay hỗ trợ lãi suất cho trên 30.000 tổ chức, cá nhân để phát triển sản xuất kinh doanh, với tổng số dư nợ cho vay được hỗ trợ lãi suất trên 5.000 tỷ đồng; trong đó: theo Quyết định 131/QĐ-TTg cho vay ngắn hạn ước đạt 4.402 tỷ đồng, theo Quyết định 443/QĐ-TTg cho vay trung và dài hạn ước đạt 570 tỷ đồng, theo Quyết định 497/QĐ-TTg cho vay hỗ trợ mua máy thiết bị vật tư sản xuất nông nghiệp và xây dựng nhà ước đạt 5 tỷ đồng, theo Quyết định 579/QĐ-TTg cho các đối tượng chính sách xã hội ước đạt 200 tỷ đồng. Tiếp nhận thẩm định và làm thủ tục bảo lãnh cho gần 40 doanh nghiệp vay vốn, hiện đã thẩm định xong và cấp chứng thư bảo lãnh cho 12 doanh nghiệp đủ điều kiện với giá trị trên 145 tỷ đồng.
Về hoạt động thu - chi ngân sách: tiếp tục phát huy những hiệu quả của các cơ quan chức năng trong quá trình kiểm soát, thực hiện các chính sách của nhà nước về thu - chi ngân sách, tăng cường công tác hậu kiểm sau hoạt động sản xuất kinh doanh theo pháp luật, trong đó có các hoạt động hiệu quả của đội chống thất thu ngân sách. Tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 1.317 tỷ đồng, đạt 115% so với dự toán, tăng 18,8% so với năm trước. Tổng chi ngân sách địa phương năm 2009 dự ước 4.018 tỷ đồng; trong đó, chi trong cân đối ước đạt 3.299,3 tỷ đồng. Nhìn chung, hoạt động thu - chi ngân sách đạt kết quả khá và đáp ứng tốt các yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương( ).
- Về sản xuất nông, lâm nghiệp: diện tích gieo cấy lúa toàn tỉnh 69.829 ha, bằng 103,7% kế hoạch và bằng 101,4% so với cùng kỳ; năng suất đạt 48,85 tạ/ha, bằng 101,2% kế hoạch, tăng 3,36% so với cùng kỳ; sản lượng đạt 341.130 tấn, bằng 103,5% kế hoạch, vượt 4,8% so với cùng kỳ. Diện tích gieo trồng ngô đạt 17.358 ha, bằng 99,2% kế hoạch, giảm 15,8% so với cùng kỳ; năng suất ngô năm 2009 đạt 38,72 tạ/ha, bằng 96% kế hoạch, giảm 5,8% so với cùng kỳ; sản lượng đạt 67.204 tấn, bằng 94,8% kế hoạch, giảm 20,7% so với cùng kỳ. Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2009 ước đạt 408.334 tấn, bằng 102% kế hoạch và bằng 99,6% so với cùng kỳ( ).
Về chăn nuôi: đàn gia súc, gia cầm, thuỷ sản trên địa bàn tỉnh được quan tâm và tập trung phát triển, chuyển dịch sang hướng tập trung, nâng cao giá trị trong lĩnh vực chăn nuôi. Đến nay, trên địa bàn tỉnh hiện có gần 400 trang trại chăn nuôi tập trung theo tiêu chuẩn kỹ thuật hiện đại, hiệu quả kinh tế khá cao… góp phần nâng cao giá trị sản xuất. Các cơ quan chức năng và các địa phương tập trung thực hiện tốt công tác tiêm phòng, phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm bảo đảm phát triển ổn định và bền vững.
Về trồng rừng: tiếp tục thực hiện dự án 661 thuộc Chương trình 5 triệu ha rừng của Chính phủ, do làm tốt công tác chuẩn bị, thời tiết thuận lợi nên đã tổ chức trồng rừng đúng khung thời vụ và kỹ thuật; đến nay, diện tích trồng rừng mới trên địa bàn đạt 6.000 ha, trong đó địa phương trồng rừng tập trung đạt 5.044 ha, đạt 112% kế hoạch, tăng 130,6% so với năm trước. Công tác quản lý, bảo vệ rừng được tăng cường, củng cố về lực lượng, phương thức hiệu quả hoạt động theo quy định( ).
2.2. Về lĩnh vực văn hoá - xã hội
Lĩnh vực văn hóa - xã hội có những chuyển biến tiến bộ. Các chỉ tiêu về giáo dục, tạo việc làm, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đạt kế hoạch đề ra.
- Công tác xóa đói giảm nghèo, bảo trợ xã hội, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình và các chính sách với người có công, gia đình chính sách tiếp tục được tập trung quan tâm, thực hiện thường xuyên, đúng quy định. Các chương trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội cho các vùng khó khăn và các chính sách trợ giúp trực tiếp về sản xuất và đời sống cho dân tộc thiểu số, người nghèo được đẩy mạnh, tổ chức thực hiện các nội dung của Chương trình 135, Chương trình 134 kịp thời và hiệu quả. Nhằm triển khai hiệu quả chương trình hỗ trợ về nhà ở cho hộ nghèo, tỉnh Thái Nguyên đã thực hiện các thủ tục theo quy định đề nghị Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan cấp kinh phí hỗ trợ xây dựng nhà ở trong giai đoạn từ năm 2009-2011 cho 8.919 hộ nghèo trên địa bàn, năm 2009 tỉnh Thái Nguyên quyết tâm thực hiện xong cho khoảng 4.000 hộ.
Trong năm 2009, các trường, trung tâm, cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh đã tổ chức dạy nghề trình độ sơ cấp cho 14.026 người, đạt 107,9% kế hoạch; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh đến năm 2009 đạt 32%. Bằng giải pháp tổ chức các sàn giao dịch việc làm thường xuyên nên trên địa bàn tỉnh, trong năm 2009 đã giải quyết việc làm mới cho việc làm mới cho 16.000 lao động, trong đó xuất khẩu 1.500 lao động, đạt mục tiêu kế hoạch.
- Các cơ quan thông tin tuyên truyền đã tổ chức nhiều hoạt động thiết thực, nhằm tuyên truyền chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương; tổ chức nhiều hoạt động vui chơi, giải trí, biểu diễn nghệ thuật, giao lưu văn hóa trà… đặc biệt là các hoạt động kỷ niệm 55 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, tuần lễ quốc gia an toàn vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ và phối hợp tổ chức giải vô địch bóng đá nữ Quốc gia 2009, giải bóng đá các câu lạc bộ, bóng đá sinh viên… đại hội dân tộc thiểu số ở các địa phương và cấp tỉnh được tổ chức trang trọng, thể hiện truyền thống văn hoá - lịch sử, tự hào của quê hương nâng cao hiệu quả phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá.
- Công tác khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế được chỉ đạo thường xuyên, kịp thời tổ chức khám, chữa bệnh đã cơ bản đáp ứng yêu cầu của nhân dân. Trong các tháng đầu năm, trên địa bàn không có dịch bệnh lớn xảy ra, các chương trình y tế quốc gia được triển khai theo đúng kế hoạch. Thực hiện hiệu quả, đúng tiến độ chương trình xây dựng hệ thống bệnh viện tuyến huyện, trạm y tế xã trên địa bàn tỉnh. Thực hiện tốt chương trình khám, chữa bệnh miễn phí cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi( ).  Về dịch cúm A (H1N1) trên địa bàn tỉnh đã ghi nhận 23 trường hợp dương tính với cúm A (H1N1); toàn bộ số bệnh nhân đã được cách ly và điều trị tại các bệnh viện và tại nhà theo phác đồ của Bộ Y tế; hiện tại các cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh tiếp tục thực hiện những biện pháp phòng, chống và xử lý môi trường… theo quy định.
Ngay từ đầu năm, ngành chức năng đã triển khai chiến dịch truyền thông về dân số, kế hoạch hoá gia đình xuống các cấp cơ sở, nhằm hỗ trợ người dân trong việc chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ sinh sản và góp phần thực hiện thành công kế hoạch về dân số đã đề ra.
Tính tại thời điểm 0h ngày 01/4/2009, tổng dân số tỉnh Thái Nguyên là 1.124.786 người, trong đó dân số nam là 559.153 người (chiếm 49,71%); dân số nữ là 565.633 người (chiếm 50,29%). So với cả nước, dân số tỉnh Thái Nguyên đứng thứ 33 và đứng thứ 3 các tỉnh trong vùng trung du và miền núi phía Bắc (sau tỉnh Bắc Giang và tỉnh Phú Thọ). Sau 10 năm, dân số tỉnh Thái Nguyên tăng thêm 78,9 nghìn người, bình quân mỗi năm tăng 7,9 nghìn người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm trong thời kỳ giữa 2 cuộc tổng điều tra năm 1999 và 2009 là 0,73%/năm, thấp hơn mức tăng bình quân 1,7%/năm của giai đoạn 1989-1999 và thấp hơn mức tăng bình quân chung của cả nước (cả nước giai đoạn 1999-2009 tăng bình quân 1,2%/năm). Dân số thành thị của tỉnh Thái Nguyên tại thời điểm tổng điều tra 2009 là 288 nghìn người, chiếm 25,62% dân số (năm 1999 dân số khu vực thành thị là 228 nghìn người, chiếm 21,81% dân số) và là tỉnh có tỷ lệ dân số thành thị cao thứ 22 so với cả nước và đứng đầu trong số các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc.
- Công tác giáo dục và đào tạo: tiếp tục thực hiện tốt các cuộc vận động,  toàn ngành triển khai công tác thanh tra toàn diện các trường để duy trì nề nếp kỷ cương dạy và học; tổ chức triển khai phong trào thi đua “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” đối với cấp học; thực hiện hoàn thành tốt mục tiêu nhiệm vụ năm học 2008-2009, kết quả học sinh đã tốt nghiệp THPT đạt 84,92% và hệ bổ túc THPT đạt 27,36%( ). Chủ động phối hợp với các trường đại học trên địa bàn để tổ chức tốt công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh đảm bảo an toàn, đúng quy chế. Chủ động triển khai hiệu quả đề án kiên cố hóa trường lớp học và nhà công vụ cho giáo viên; đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình xây dựng ký túc xá sinh viên và khu đô thị sinh viên trên địa bàn, trong năm 2009-2010 tổ chức khởi công xây dựng 52 tòa nhà; tập trung lập quy hoạch để xây dựng khu đô thị sinh viên trong giai đoạn tiếp theo với tổng kinh phí trên 1.000 tỷ đồng.
- Công tác quản lý khoa học và công nghệ trên địa bàn đã bám sát chương trình, kế hoạch để tăng cường ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống thông qua thực hiện các đề tài, dự án được triển khai theo đúng kế hoạch. Công tác thanh tra, quản lý tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu trí tuệ... được duy trì thực hiện theo quy định.
- Công tác quản lý tài nguyên môi trường: kịp thời có các giải pháp ngăn chặn xử lý để quản lý, lập trật tự ổn định tình hình về khai thác, sử dụng, vận chuyển khoáng sản và khuyến khích các nhà đầu tư tập trung vào chế biến sâu, nâng cao giá trị trong khai thác chế biến tài nguyên khoáng sản theo quy hoạch; kịp thời cấp đất cho chủ đầu tư các dự án, công trình đầu tư trên địa bàn tỉnh; cơ bản hoàn thành việc công tác cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về việc điều chỉnh cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với thửa đất ở có vườn, ao đã cấp vượt hạn mức đất ở theo quy định, do không tách diện tích đất ở và đất vườn, ao trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên theo Nghị quyết số 34 của HĐND tỉnh. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động tài nguyên, môi trường, chấn chỉnh và xử lý vi phạm để đảm bảo việc chấp hành chính sách, pháp luật về quản lý, bảo vệ tài nguyên, môi trường theo quy định( ).
2.3. Lĩnh vực nội chính
- Công tác tổ chức: thực hiện việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển cán bộ, đào tạo cán bộ quản lý, tuyển dụng cán bộ công chức... được thực hiện theo đúng quy định.
Tổ chức đánh giá kết quả thực hiện năm “Cải cách thủ tục hành chính - thu hút đầu tư” và đẩy mạnh thực hiện kế hoạch cải cách hành chính trong năm 2009. Đặc biệt phát huy vai trò và đẩy mạnh hiệu quả cải cách thủ tục hành chính của Tổ công tác thực hiện Đề án 30 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh, đến nay đã hoàn thành giai đoạn thống kê thủ tục hành chính và đã công bố 1.221 thủ tục; trong đó có 103 bộ thủ tục áp dụng chung ở cấp xã, 179 bộ thủ tục áp dụng chung ở cấp huyện và 939 bộ thủ tục hành chính ở cấp Sở, ngành. Tổ công tác Đề án 30 đã phối hợp, đưa các thủ tục hành chính đã được công bố lên trang web của tỉnh và hiện đang thực hiện rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính theo chỉ đạo của Tổ công tác Đề án 30 của Thủ tướng Chính phủ.
Tổ chức tôn vinh và biểu dương doanh nghiệp xuất sắc và trao cúp doanh nhân tiêu biểu lần thứ nhất trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, đồng thời phát động tổ chức tốt phong trào thi đua yêu nước thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong việc thực hiện xây dựng hạ tầng giao thông.
Công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo thường xuyên được quan tâm, hoạt động tôn giáo của các tổ chức tôn giáo trên địa bàn dần đi vào nề nếp theo quy định của pháp luật, tăng cường giải quyết các vấn đề về đất xây dựng các cơ sở thờ tự, tôn giáo trên địa bàn và các hoạt động tôn giáo trên địa bàn đảm bảo đúng quy định góp phần giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong tỉnh.
- Công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được quan tâm, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh thực hiện nghiêm chỉnh. Ban Chỉ đạo Phòng chống tham nhũng của tỉnh triển khai tích cực các quy định của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trên tất cả các lĩnh vực, kịp thời chỉ đạo các ngành, các cấp có các biện pháp xử lý các sai phạm; công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, kê khai tài sản, thu nhập… được các cấp, các ngành quan tâm triển khai đến cán bộ, công chức, viên chức và xác định là trách nhiệm, nghĩa vụ trong thi hành nhiệm vụ.
- Công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo và thi hành pháp luật: tiếp tục tổ chức các cuộc thanh tra, kiểm tra tại một số đơn vị, địa phương thuộc tỉnh dần đi vào nề nếp, đúng pháp luật. Lãnh đạo UBND tỉnh và lãnh đạo các cấp, các ngành đã tăng cường công tác tiếp dân, quan tâm, chỉ đạo thường xuyên công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định. UBND tỉnh phối hợp với Tổ công tác của Thanh tra Chính phủ kiểm tra, xem xét và kết luận xử lý dứt điểm một số vụ khiếu kiện đông người, kéo dài trên địa bàn tỉnh. Thường xuyên tổ chức tuyên truyền, phổ biến các chính sách pháp luật nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân trên địa bàn( ).
- Công tác Quân sự địa phương và an ninh trật tự: thường xuyên duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng nắm tình hình địa bàn, thường xuyên kiểm tra, bổ sung các phương án để chủ động đối phó với các tình huống có thể xảy ra. Tổ chức ra quân huấn luyện, tập huấn cho cán bộ quân thường trực và dân quân tự vệ các cấp; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ chủ chốt các cấp và giáo dục kiến thức quốc phòng cho học sinh, sinh viên của các trung học phổ thông, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề theo kế hoạch; tổ chức đại hội thể dục thể thao quốc phòng toàn tỉnh đảm bảo an toàn, chất lượng. Công tác tuyển quân năm 2009 đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, tổ chức diễn tập phòng thủ, diễn tập phòng chống khủng bố an toàn và đảm bảo chất lượng.
Tình hình an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh được duy trì và nhìn chung ổn định. Tính đến ngày 31/10/2009, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 170 vụ tai nạn giao thông, làm chết 180 người và bị thương 110 người, so với cùng kỳ số vụ tai nạn giao thông tăng 14 vụ, tăng 21 người chết và tăng 5 người bị thương.
3. Một số khó khăn, hạn chế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Mặc dù tình hình kinh tế - xã hội trong năm 2009 đạt được nhiều tiến bộ, cơ bản các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh; việc chỉ đạo, phối hợp chưa quyết liệt của một số cấp, ngành trên một số lĩnh vực như: tiến độ các dự án, công trình xây dựng cơ bản, thủ tục quy trình thực hiện các dự án, chương trình mục tiêu, hạ tầng giao thông, các dự án đã cấp phép đầu tư... triển khai thực hiện còn chậm và dồn nhiều vào các tháng cuối năm; công tác lập, quản lý quy hoạch chung, quy hoạch xây dựng còn nhiều lúng túng và chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; công tác bồi thường giải phóng mặt bằng cho một số dự án chưa đáp ứng được yêu cầu, tiến độ; việc chấp hành Luật Giao thông của một bộ phận không nhỏ nhân dân còn chưa nghiêm túc, tình hình tội phạm và nghiện ma tuý, tệ nạn xã hội khác và một số dịch bệnh nguy hiểm diễn biến phức tạp...
Những hạn chế, yếu kém nêu trên trong quản lý, điều hành của các cấp chính quyền trong tỉnh, cùng với những yếu kém nội sinh của nền kinh tế; đồng thời chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới đã hạn chế đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững của tỉnh. Uỷ ban nhân dân tỉnh đã nghiêm túc đánh giá những kết quả đạt được, những mặt mạnh, tích cực; đồng thời kiểm điểm sâu sắc về những mặt bất cập, hạn chế trong quản lý, điều hành thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, tại các phiên họp thường kỳ, đã đề ra giải pháp khắc phục kịp thời và triển khai tích cực theo chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương, của Tỉnh uỷ, HĐND tỉnh nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, góp phần giữ ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh.

Phần thứ hai
PHƯƠNG  HƯỚNG, NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2010

Nhiệm vụ kế hoạch năm 2010 có ý nghĩa quan trọng trong việc phấn đấu thực hiện hoàn thành và vượt các mục tiêu kế hoạch 5 năm 2006-2010. Đây là năm có nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi cho phát triển, song vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn thách thức, đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất cao của các ngành, các cấp để tận dụng cơ hội, khắc phục những khó khăn, trở ngại, hoàn thành tốt các mục tiêu đề ra cho năm kế hoạch này.
I. Mục tiêu và chủ đề:
Tập trung phát huy mọi nguồn lực để thúc đẩy nhanh sự phục hồi của nền kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển. Tiếp tục phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là kết cấu hạ tầng phụ trợ cho các khu cụm công nghiệp, kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; các công trình y tế, giáo dục. Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, giải quyết việc làm và phát triển nguồn nhân lực, phát triển khoa học công nghệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Giải quyết tốt các vấn đề về xã hội, giảm nghèo, xóa nhà dột nát và các chính sách đảm bảo an sinh xã hội, đẩy mạnh xử lý ô nhiễm môi trường, bảo đảm phát triển bền vững. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của các cấp, các ngành; hiệu quả xây dựng và thực hiện cơ chế chính sách ở địa phương; tăng cường củng cố an ninh, quốc phòng, giữ vững trật tự an toàn xã hội.
Phấn đấu thực hiện thành công nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 với chủ đề trọng tâm của năm là “Tập trung phát triển kinh tế công nghiệp và xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại dịch vụ, du lịch. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, công tác bồi thường giải phóng mặt bằng và tiến độ các công trình, dự án trọng điểm. Chỉ đạo thực hiện thành công Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Tỉnh đảng bộ lần thứ XVIII” với phương châm “đoàn kết phát triển và 3 thân thiện”( ).
II. Các chỉ tiêu chủ yếu:
a. Các chỉ tiêu kinh tế:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế ( )    từ 11% đến 12%
    Trong đó: + Công nghiệp - xây dựng:     14%
                     + Dịch vụ:     12,5%
                     + Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản:     4,5%
- Giá trị sản xuất công nghiệp - TTCN tăng     22% trở lên;
- Giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng     15% trở lên;
- Thu ngân sách phấn đấu tăng 18% so với thực hiện năm 2009 (chưa bao gồm thu tiền sử dụng đất);
- GDP bình quân đầu người trên 17     triệu đồng/người;
- Giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 6,5% so với năm 2009. Trong đó sản lượng lương thực có hạt đạt trên 400 ngàn tấn; giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng 8% so với năm 2009;
- Diện tích trồng rừng mới trên địa bản:     6.000 ha;
- Diện tích trồng chè mới, cải tạo và phục hồi:     600 ha;
- Giá trị sản xuất/1 ha diện tích đất trồng trọt (theo giá thực tế): 51 triệu đồng
b. Các chỉ tiêu xã hội:
- Mức giảm tỷ xuất sinh thô trong năm:     0,2%o
- Tốc độ tăng dân số tự nhiên:     0,9%
- Tạo việc làm mới cho:                     16.000 lao động
- Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên:    40%
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo so với năm 2009:    2,5%
- Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới:     18,5%
- Hoàn thành kế hoạch xóa nhà dột nát theo Chương trình 167
c. Các chỉ tiêu về môi trường:
- Nâng tỷ lệ độ che phủ rừng lên:     50%
- Cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh cho 90% dân số nông thôn.
d. Đảm bảo an ninh trật tự xã hội và phấn đấu hoàn thành 100% các chỉ tiêu công tác quân sự địa phương.
III. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trên các lĩnh vực:
A. Về kinh tế:
1. Phát triển công nghiệp:
- Đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghiệp, đồng thời với nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tăng hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Đổi mới cơ cấu và đa dạng hoá sản phẩm, xây dựng và phát triển các sản phẩm chủ lực, mũi nhọn phù hợp với tình hình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp chế biến nông, lâm sản và gắn với thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển làng nghề; đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ để cung cấp đầu vào cho các cơ sở sản xuất công nghiệp trong nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu.
- Tiếp tục thực hiện kịp thời, có hiệu quả các chính sách, giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, kích cầu đầu tư và tiêu dùng… của Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương với phương châm “năng động, sáng tạo, sát tình hình và hiệu quả”. Tiếp tục thực hiện tốt nhóm nhiệm vụ, giải pháp “năm đẩy, bốn quản, ba chống và ba thân thiện” trên địa bàn tỉnh( ).
- Tổ chức thực hiện các dự án đầu tư xây dựng thuộc các nguồn vốn do các ngành, các địa phương làm chủ đầu tư ngay trong những tháng đầu năm. Tập trung giải phóng mặt bằng các công trình trọng điểm của Trung ương và địa phương để đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện các dự án, công trình trọng điểm như: đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên; cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 3; xây dựng cụm cảng Đa Phúc; Nhà Máy điện An Khánh; cảng ICD; đường Bắc Sơn, đường Quang Trung, nghĩa trang Ngân Hà Viên, các dự án giao thông thuộc nguồn vốn OFID và WB3...
- Tạo điều kiện thuận lợi triển khai thực hiện nhanh các dự án đã đăng ký đầu tư năm 2008-2009 trong năm 2010. Khẩn trương triển khai lập, thực hiện quy hoạch và đầu tư cơ sở hạ tầng các khu, cụm công nghiệp, đặc biệt là các khu công nghiệp Nam Phổ Yên, Tây Phổ Yên, Điềm Thuỵ - Phú Bình, Quyết Thắng - thành phố Thái Nguyên, Tổ hợp công nghiệp - dịch vụ Yên Bình.
2. Phát triển ngành dịch vụ:
- Tập trung phát triển các ngành dịch vụ có thế mạnh và lợi thế so sánh. Khuyến khích phát triển các dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu các ngành dịch vụ theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển thị trường dịch vụ có tiềm năng nhưng chưa được khai thác; khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế đầu tư phát triển vào lĩnh vực dịch vụ; các doanh nghiệp liên kết, hình thành các hiệp hội, ngành hàng... nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại trong nước. Nâng cao năng lực điều hành thị trường, dự báo sớm và có hiệu quả những biến động của thị trường để có biện pháp điều hành kịp thời; đẩy mạnh công tác quản lý thị trường, hạn chế các hiện tượng tiêu cực như đầu cơ, găm hàng, nâng giá và gian lận thương mại.
- Nâng cao hiệu quả và đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, quảng bá du lịch, đồng thời kết hợp chặt chẽ với xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư để mở rộng địa bàn, nội dung quảng bá du lịch, thu hút đầu tư.
- Phát triển ngành dịch vụ vận tải đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá, hành khách; đẩy mạnh vận chuyển hành khách công cộng; cải thiện chất lượng phương tiện và dịch vụ vận tải trong các ngành vận tải, bảo đảm an toàn giao thông; hiện đại hoá ngành bưu chính, viễn thông, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, nâng cao khả năng cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập.
- Bên cạnh việc phát triển dịch vụ như trên, cần chú trọng đẩy nhanh tiến độ các công trình, khách sạn và tòa nhà cao tầng trên địa bàn thành phố; đồng thời đa dạng hoá các hoạt động dịch vụ, khai thác tốt và nâng cao chất lượng các dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn thiết kế, khoa học công nghệ.
3. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân
- Tiếp tục triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Phấn đấu giá trị sản xuất ngành nông lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 6,5%, sản lượng lương thực đạt trên 400 ngàn tấn; giảm chi phí sản xuất, nâng giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp tăng trên 4,5%.
Tập trung nâng cao năng suất, chất lượng lúa bằng việc sử dụng giống mới năng suất, chất lượng cao, khuyến khích áp dụng biện pháp canh tác hiệu quả, thực hiện tốt các mô hình trình diễn, thử nghiệm các loại giống lúa mới có năng suất và chất lượng cao. Triển khai diện rộng chương trình trồng đậu tương giống mới, các giống ngô mới có năng suất cao để hình thành các vùng sản xuất tập trung. Xây dựng, củng cố và thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển các vùng, địa phương tập trung sản xuất lúa giống, cây giống các loại... sớm hình thành làng nghề mới trong nông nghiệp, nông thôn.
- Phát triển các vùng cây đặc sản có lợi thế như: rau sạch, hoa, nấm; đặc biệt là cây chè triển khai trồng mới và cải tạo từ 600ha đến 1.000ha thành vùng tập trung, ứng dụng công nghệ chế biến sau thu hoạch để nâng cao giá trị, chất lượng; triển khai kế hoạch trồng nấm dược liệu và nấm ăn trên diện rộng, hỗ trợ các cá nhân, tập thể trong khâu tiêu thụ nấm. Xây dựng và phát triển thương hiệu, mở rộng các hình thức liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, xúc tiến thương mại để nâng cao giá trị và mở rộng thị trường tiêu thụ của mặt hàng nông sản.
 - Thực hiện tốt công tác quy hoạch, lập kế hoạch phát triển của ngành để bảo đảm thực hiện chỉ tiêu đề ra. Trong đó chủ yếu cần tiếp tục thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo tinh thần nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; chú trọng đầu tư kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp, nông thôn, chuyển giao kỹ thuật các loại giống vật nuôi, cây trồng có giá trị kinh tế cao, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất.
- Tuyên truyền, phổ biến và thực hiện hỗ trợ xây dựng các mô hình, vùng sản xuất ứng dụng công nghệ sản xuất, chế biến, bảo quản tiên tiến để nâng cao giá trị nông sản như: xây dựng kế hoạch chương trình phát triển trồng nấm thành chương trình trọng điểm, vùng nguyên liệu chè để phục vụ sản xuất chè chất lượng cao, vùng rau an toàn, vùng nuôi cá nước lạnh, cá trên các hồ, ao và các mô hình trình diễn trồng lúa chất lượng cao...
- Tiếp tục củng cố, nâng cao hiệu quả công tác khuyến nông khuyến lâm, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho doanh nghiệp, nông dân; hoạt động của các trung tâm, trạm trại, mạng lưới phân phối vật tư nông nghiệp, dịch vụ thú y, hỗ trợ phòng dịch phục vụ cho sản xuất nông lâm nghiệp. Tăng cường công tác quản lý thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, kiểm soát việc sản xuất và cung ứng sản phẩm phụ vụ trong lĩnh vực nông nghiệp bảo đảm tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và phòng, chống cháy rừng, lũ lụt, hạn hán và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra.
B. Về văn hóa - xã hội
1. Giáo dục đào tạo:
- Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo toàn diện, coi trọng cả nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, đào tạo nhân tài, dạy nghề, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, nhân cách, phẩm chất đạo đức, lối sống. Tăng cường công tác kiểm định chất lượng giáo dục, tiến tới xây dựng cơ chế tự bảo đảm chất lượng và các trường tự đánh giá theo định kỳ. Tập trung xây dựng thực hiện các chính sách đặc thù, chính sách xã hội hóa, từng bước nâng cấp, xây dựng hoặc thành lập trường, lớp chất lượng cao theo tiêu chuẩn Quốc tế... để xây dựng Thái Nguyên tương xứng là trung tâm thứ 3 của cả nước về giáo dục và đào tạo.
- Đối với công tác đào tạo và dạy nghề: tập trung hoàn thành việc đầu tư cơ sở vật chất các trung tâm dạy nghề; nâng cao trình độ, chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên, tăng cường công tác quản lý nhà nước... để nâng cao chất lượng dạy nghề đáp ứng yêu cầu xã hội. Triển khai thực hiện có hiệu quả chính sách  hỗ trợ đào tạo nghề hợp lý cho nông dân, các hộ bị nhà nước thu hồi đất và thực hiện giải quyết việc làm bảo đảm cuộc sống người dân.
2. Khoa học công nghệ:
- Đẩy mạnh các hoạt động ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ theo hướng chọn lọc để phổ biến, ứng dụng nhanh các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất và đời sống. Trong đó chú trọng ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, công nghệ tự động hoá, công nghệ sinh học; chuyển giao công nghệ và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật  trong sản xuất nông nghiệp cho nông dân, nông thôn; ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất để tạo ra sản phẩm mới;
- Nâng cao chất lượng các hoạt động nghiên cứu khoa học, các đề tài khoa học phải gắn với yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế của địa phương; căn cứ vào kết quả tổng kết, đánh giá hiệu quả của các đề tài, dự án đã thực hiện, đưa vào ứng dụng thực tiễn để định hướng cho các năm tiếp theo; sử dụng một phần kinh phí nghiên cứu khoa học để thực hiện khảo nghiệm các giống mới, ứng dụng công nghệ chế biến sau thu hoạch, quản lý bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường; hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu phát triển, chuyển giao công nghệ;
3. Công tác dân số, y tế và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân:
- Thực hiện tốt chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, phấn đấu đạt chỉ tiêu giảm sinh và ngăn ngừa mất cân bằng giới tính. Nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ trong lĩnh vực dân số gắn với cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình. Tăng cường phối hợp giữa các cấp, các ngành, nhân dân và huy động các thành phần kinh tế, tổ chức xã hội tham gia công tác dân số, gia đình. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động và giáo dục  về dân số, kế hoạch hóa gia đình, nhất là với đối tượng vị thành niên, thanh niên và người dân vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
- Phát triển và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách quản lý, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ban đầu, kết hợp với đạo đức ngành y, y tế xã phường; phòng trừ dịch bệnh mới phát sinh. Tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước, đồng thời xã hội hóa một cách phù hợp để huy động các nguồn lực xã hội vào phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân.
4. Giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo:
- Tăng cường công tác giải quyết việc làm, phấn đấu tạo nhiều việc làm mới và đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị, nâng cao thời gian sử dụng lao động ở nông thôn. Thực hiện kịp thời, hiệu quả chương trình đào tạo, dạy nghề cho nông dân theo Chương trình của Chính phủ. Xây dựng mối quan hệ hài hòa, giữa nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động, bảo đảm vệ sinh, an toàn lao động trong các doanh nghiệp
- Đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo, không ngừng cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tập trung các nguồn lực, sụ phối hợp của các cấp, ngành thực hiện hoàn thành Chương trình 167 về hỗ trợ người nghèo về nhà ở; thực hiện các chính sách hỗ trợ để người dân phát triển sản xuất, thoát nghèo và vươn lên làm giàu. Hỗ trợ kịp thời cho người dân vùng bị thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh khắc phục khó khăn, khôi phục sản xuất và ổn định cuộc sống.
5. Phát triển văn hóa, thể dục thể thao, thông tin truyền thông:
- Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện chiến lược văn hóa; gắn chặt phát triển văn hóa với phát triển kinh tế để văn hóa thực sự là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, là nền tảng tinh thần cho xã hội. Tăng mức hưởng thụ văn hóa, thể thao cho đồng bào dân tộc thiểu số; nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục các giá trị đạo đức, lối sống lành mạnh trong gia đình. Khuyến khích sáng tạo các tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng, nghệ thuật; triển khai xây dựng quy hoạch tổng thể ATK liên hoàn 3 tỉnh Thái Nguyên - Bắc Kạn - Tuyên Quang, đẩy mạnh công tác xã hội hoá để tôn tạo, nâng cấp các di tích lịch sử.
- Tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao thiết thực, hiệu quả hướng tới đại hội thể dục thể thao cấp tỉnh trong quý II/2010. Phát triển mạnh mẽ thể dục thể thao quần chúng nhằm tiếp tục triển khai cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” để thu hút đông đảo lực lượng của xã hội tham gia dưới nhiều hình thức sinh động, góp phần nâng cao đời sống tinh thần, văn hóa, tăng cường thể chất của nhân dân; chú trọng phát triển thể thao mũi nhọn, thành tích cao của tỉnh.
- Nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo chí, xuất bản. Tăng cường lãnh đạo, quản lý, xử lý kịp thời các sai phạm. Đẩy mạnh thông tin đối ngoại, chống sự xâm nhập các sản phẩm độc hại... gây phương hại tư tưởng, đạo đức xã hội; nêu cao tinh thần cảnh giác, kịp thời đấu tranh với các luận điểm sai trái của các thế lực thù địch với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
6. Tài nguyên, môi trường và phát triển bền vững:
- Phát huy nguồn lực đất đai trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Khắc phục có hiệu quả những yếu kém trong công tác quản lý, sử dụng đất đai, đưa công tác quản lý đất đai đi vào trật tự, kỷ cương; thực hiện tốt công tác kiểm kê đất đai, quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011-2015 và phấn đấu thực hiện hoàn thành công tác cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong năm 2010.
- Bảo đảm khai thác, sử dụng tài nguyên nước một cách hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả nhằm đáp ứng nhu cầu nước cho dân sinh và phát triển kinh tế - xã hội bền vững gắn với bảo vệ môi trường.
- Tăng cường công tác điều tra, đánh giá tài nguyên khoáng sản, làm rõ các tiềm năng tài nguyên khoáng sản, điều kiện cấu trúc, môi trường địa chất phục vụ quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, đồng thời tăng hiệu quả kinh tế, giảm thiểu tác động đến môi trường, bảo đảm an ninh, quốc phòng và trật tự an toàn xã hội trong hoạt động khoáng sản.
- Tiếp tục cụ thể hóa các cơ chế chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, có các chế tài đủ mạnh để ngăn ngừa, kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Đưa nội dung quy bảo vệ môi trường vào chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực, chương trình, dự án đầu tư. Đẩy mạnh xã hội hóa trong công tác bảo vệ môi trường; giải quyết triệt để các điểm nóng về môi trường. Tích cực phòng ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường.
C. Về lĩnh vực nội chính
1. Thực hiện kiên quyết, đồng bộ các giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính và phòng chống tham nhũng, lãng phí:
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể và tập trung đột phá vào thủ tục hành chính, công tác tổ chức bộ máy và lề lối làm việc, đơn giản hoá, công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, tăng cường cải thiện môi trường đầu tư, chấm dứt sự trì trệ trên các lĩnh vực, nhất là sự chồng chéo hoặc thiếu trách nhiệm, thiếu biện pháp thực hiện của các cấp, các ngành trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường tổ chức phân cấp và xác định chức năng, nhiệm vụ cho các cơ quan hành chính các cấp và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong cải cách hành chính, quản lý, điều hành của các cơ quan hành chính để đạt được mục tiêu thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội.
- Triển khai thực hiện đồng các bộ luật và chỉ đạo của Chính phủ về phòng chống tham nhũng, lãng phí; trong đó thực hiện tốt các nhiệm vụ theo lộ trình của chiến lược về phòng chống tham nhũng đến năm 2020. Triển khai kế hoạch thanh tra, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm; nâng cao hiệu quả và chủ động ngăn ngừa tiêu cực, nhũng nhiễu trong thanh tra, kiểm tra. Thực hiện nghiêm quy định về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng, lãng phí. Tăng cường kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm.
2. Về quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội:
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác củng cố quốc phòng và an ninh, kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng và an ninh với sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập; đẩy mạnh trấn áp các hoạt động tội phạm, đảm bảo trật tự kỷ cương xã hội và đảm bảo công tác phục vụ đại hội Đảng các cấp.
Đẩy mạnh công tác giáo dục quốc phòng, nâng cao ý thức cảnh giác, nắm chắc tình hình, có phương án sẵn sàng đối phó với mọi tình huống có thể xảy ra. Củng cố, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Phát động phong trào quần chúng tham gia phòng, chống tội phạm, phòng chống các tệ nạn xã hội. Mở rộng các hình thức phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân. Tập trung giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.
Đẩy mạnh hoạt động phòng chống tội phạm, ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, xử lý nghiêm theo pháp luật các tội phạm về ma túy, mại dâm và các tội phạm nguy hiểm khác. Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động đảm bảo trật tự kỷ cương xã hội, trật tự an toàn giao thông./.

Tin cùng chuyên mục

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự, chứng kiến Lễ ký, trao 26 thỏa thuận hợp tác của các bộ, ngành và doanh nghiệp Việt Nam và đối tác Anh.

Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Hội nghị COP26 và làm việc tại Anh: Ký kết thỏa thuận hợp tác trị giá hàng tỷ USD

(PLVN) - Nhân chuyến tham dự Hội nghị COP26 và làm việc tại Vương quốc Anh, chiều 31/10 (giờ địa phương), tại thành phố Edinburg, Scotland, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã dự, chứng kiến lễ ký, trao 26 thỏa thuận hợp tác trong các lĩnh vực thương mại, nông nghiệp, năng lượng, y tế, giáo dục, đào tạo, bảo vệ môi trường, thể thao... của các bộ, ngành và doanh nghiệp Việt Nam và đối tác Anh.

Đọc thêm

Giảm tải mật độ, hạn chế lây nhiễm trong khu cách ly

làm thủ tục tiếp nhận công dân vào khu cách ly tại Trường Quân sự Bộ Tư lệnh Thủ đô. Ảnh: báo Lao động (chụp tháng 2/2020)
(PLVN) - Những ngày vừa qua, số ca F1 chuyển biến thành F0 tăng nhanh nên TP Hà Nội đã chỉ đạo xét nghiệm toàn bộ số F1 đang cách ly để sàng lọc, rà soát mà không cần chờ đủ thời gian 7 ngày theo quy định. Qua xét nghiệm đã xác định thêm 27 ca bệnh chuyển từ F1 thành F0.

Những nữ Công an tỉnh Phú Thọ nhiệt huyết trong công việc

Chiến sỹ Cảnh sát nhập dữ liệu thông tin của người dân.
(PLVN) - Trong bất kể lĩnh vực công tác nào, thì những “bông hồng thép”- nữ cán bộ, chiến sĩ Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an Phú Thọ đều luôn nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần mang lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân.