Bâng khuâng, tưởng nhớ Ức Trai

Cao Năm

Trầm tư Côn Sơn

Phạm Ngà

Bước chân vào động Thanh Hư

Bâng khuâng hư thực, mơ hồ nắng mưa

Đồi cao im bóng cây thưa

ức Trai thuở trước, hồn giờ nơi đâu?

Góc lều giữ tiết thanh tao

Một niềm nhân nghĩa, cồn cào mấy phương

Trọn đời giồn bão dập dồn

Quân thần nghiêng ngửa, cương thường đảo điên

Thánh hiền vùi tận đất đen

Nổi trên máu nỗi oan khiên một thời

Nỗi đau lệch đất nghiêng trời

Năm trăm năm vẫn chưa thôi rơi đầu.

Về đây chạnh nỗi xưa sau

Nhìn khe suối cạn, nỗi sầu khôn nguôi

Tưởng đâu ưu uất dáng ngồi

Quặn đau phiến đá, một thời bão giông

Ví dầu ẩn dật mà xong

Thì xin một sắc nâu sồng cùng đây

Thăm đời xưa, gặp đời nay

Tìm quên lãng, gặp tháng ngày trầm luân.

Ngùi trông lá rụng đầy sân

Hồn ai lạc giữa cõi trần ngẩn ngơ.

Tác giả đặt một khổ thơ bốn câu tưởng như chỉ làm cái việc thông lệ mở đầu. Nhưng không, ngay sau câu nhập đề, nhà thơ không ngần ngại bộc bạch thẳng tâm trạng đang rối bời thực hư, hư thực trong lòng khi đặt chân tới một nơi mà mỗi bước đi đều như gặp lại ức Trai xưa còn lẩn quất đâu đây: 'Đồi cao in bóng cây thưa! Ức Trai thuở trước, hồn giờ nơi đâu?'. Và để đi tìm lời đáp thì không thể chỉ ngắm cảnh đẹp động Thanh Hư, lắng nghe tiếng nước róc rách suối Côn Sơn từng in dấu ức Trai một thời, mà phải tìm chỗ nào thật tĩnh lặng, ngồi lại, lùi xa về quá khứ trầm ngâm suy ngẫm về Nguyễn Trãi, về nhân tình thế thái mới cảm hết cái tầm cao tư tưởng Ức Trai.

Cả khổ thơ tiếp theo như đưa người đọc lùi lại quá khứ, bằng cái nhìn của hôm nay, suy ngẫm về Nguyễn Trãi, một con người tài đức vẹn toàn, với một cách nhìn nhân văn sâu sắc và hiện đại. Tại vùng địa linh nhân kiệt này, Nguyễn Trãi đã sinh thành từ trong mái nhà của ông ngoại là Quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán, rồi khi từ quan lại về đèn sách ở nơi đây. Và cũng chính ở Côn Sơn, cái án oan nghiệt Lệ Chi Viên đã để lại nỗi đau không chỉ cho gia tộc Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ mà còn là của cả dân tộc. Chỉ với một câu lục bát: 'Góc lều giữ tiết thanh tao/ Một niềm nhân nghĩa, cồn cào mấy phương', nhà thơ đã lột tả khá sâu sắc cốt cách, đức độ cao rộng và ảnh hưởng của Nguyễn Trãi đến thời cuộc lúc bấy giờ. Nhưng, có nỗi oan nào hơn nỗi oan của Nguyễn Trãi, và lịch sử không biết đến bao giờ có thể nguôi quên thảm án Lệ Chi Viên. Đấy là cách nói thông thường xưa nay nhiều người nói và viết trên báo chí, sách vở bằng văn xuôi; nhưng còn thơ, có lẽ ít ai gói trọn trong một câu thơ mà đọc lên đã thấy nhói đau trước cái thảm án có một không hai trong lịch sử, thấm thía và dai dẳng truyền từ đời này sang đời khác, nỗi đau của cả dân tộc, như Phạm Ngà trong câu này: 'Nỗi đau lệch đất nghiêng trời/ Năm trăm năm vẫn chưa thôi rơi đầu'. Oan khiên quá, đau đớn quá, đến kêu 'trời cao đất dầy ơi!' cũng chỉ là bình thường, phải lệch cả đất, nghiêng cả trời cao họa may mới bớt phàn oan ít nhiều chăng? Thơ đi tới cái tận cùng của tâm trạng, của cảm xúc đã tạo được công năng trong tình cảm, suy nghĩ và chiều sâu liên tưởng ở người đọc.

Nếu tên bài có chủ đạo: 'Trầm tư Côn Sơn', thì ở khổ tiếp theo, nhà thơ đã bám chặt vào sự trầm tư, giãi bầy tới tận cùng những trăn trở, suy nghĩ lắng sâu trong lòng về cuộc đời và sự nghiệp của Anh hùng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi: 'Về đây chạnh nỗi xưa sau/ Nhìn khe suối cạn, nỗi sầu khôn nguôi'. Mỗi bước đi là một nỗi băng khuâng, tưởng nhớ ức Trai đến quặn lòng và cũng như thấy Ức Trai vẫn còn lẩn quất đâu đây. Nhưng cũng chính từ cái nơi góc rừng, khe núi này Nguyễn Trãi từng sống, tác giả chiêm nghiệm, suy tư về sự đời, về nhân tình thế thái, xưa và nay, mà thấy ra nhiều điều; và cái điều sâu sắc nhất, đời nhất mà nhà thơ rút ra là không thể ẩn dật, xa lánh nhân quần mà chỉ có hòa đồng vào xã hội, dù còn phải vật lộn, trầm luân thật, nhưng vẫn tìm thấy sự chở che, chứ còn tách biệt, ẩn dật thì đến như Nguyễn Trãi cũng không thoát khỏi chu di tam tộc nữa là: 'Ví dù ẩn dật mà xong/ Thì xin một sắc nâu sồng cùng đây/ Thăm đời xưa, gặp đời nay/ Tìm quên lãng, gặp tháng ngày trầm luân'. Cả khổ thơ là sự cô đúc suy tư, chiêm nghiệm về một bậc Thánh hiền mà lớp người đến sau không chỉ hàm ơn, mà rất cần suy ngẫm, tự rút lấy bài học đường đời cho mình. Thơ viết về người xưa, nhưng không xưa cũ mà lại rất mới mẻ, hiện thực, đậm chất suy tư về nhân tình thế thái.

Bài thơ viết theo thể lục bát, một thể thơ tuy chưa phải là thế mạnh của Phạm Ngà, nhưng anh đã có nhiều bài hay ở thể này. Thơ Phạm Ngà vốn không 'đi mây về gió' mà anh thường lách vào tầng sâu suy nghĩ, mang đến cho người đọc sự liên tưởng sâu sắc. Thơ anh dễ tạo được sự rung động, giao hòa giữa tác giả và người đọc. Mà 'Trầm tư Côn Sơn' có thể là một bài thơ tiêu biểu cho dòng thơ suy tư, chiêm nghiệm của nhà thơ Phạm Ngà.