Xuất khẩu gỗ giảm sâu ở các thị trường lớn
Tại Tọa đàm “Phát triển bền vững và những thách thức đặt ra cho ngành gỗ” do (VIFOREST) cùng các Hiệp hội thành viên, các Chi hội trong Hiệp hội phối hợp với Forest Trends tổ chức, ông Đỗ Xuân Lập, Chủ tịch VIFOREST dẫn số liệu từ Tổng cục Hải quan, cho biết kim ngạch XK gỗ và sản phẩm gỗ trong 11 tháng năm 2023 đạt 12,1 tỷ USD, bằng 82,5% kim ngạch XK của năm 2022. Ước tính kim ngạch XK của ngành hết 12 tháng năm 2023 sẽ đạt 13,5 tỷ USD, giảm 15,5% so với năm 2022.
Đây là tin không vui khi gỗ và sản phẩm gỗ là ngành XK trọng điểm với kim ngạch XK nhiều năm tăng 2 con số. Năm 2022 vừa qua, kim ngạch XK ngành hàng này đã vượt mốc 15 tỷ USD (đạt 15,85 tỷ USD).
Theo TS. Tô Xuân Phúc, chuyên gia Forest Trend, năm 2023 là một năm khó khăn của ngành gỗ Việt Nam. Nhu cầu sử dụng hàng hóa, đặc biệt là về hàng hóa không thiết yếu như đồ gỗ, giảm mạnh. Một số nhà NK đồ gỗ lớn trên thế giới đã phá sản. Nhiều doanh nghiệp (DN) ngành gỗ của Việt Nam phải thu hẹp quy mô sản xuất, một số DN thậm chí phải đóng cửa.
Đặc biệt, XK gỗ và sản phẩm gỗ vào các thị trường lớn đều giảm sút. Số liệu cập nhật đến tháng 10 cho thấy, Mỹ vẫn là thị trường lớn nhất của ngành gỗ Việt Nam, với kim ngạch đạt trên 5,7 tỷ USD, giảm 21,5% so với cùng kỳ năm 2022; Trung Quốc là thị trường lớn thứ hai, kim ngạch 1,43 tỷ USD, giảm 23,2% so với cùng kỳ năm 2022; Thứ ba là Nhật Bản, đạt 1,38 tỷ USD, giảm 11,3% so với cùng kỳ năm 2022…Với thị trường EU chỉ giữ vị trí thứ năm, kim ngạch 341,16 triệu USD, giảm 34,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Năm 2023 ghi nhận kim ngạch XK vào Ấn Độ và Indonesia tăng mạnh. Trong 10 tháng, XK sang Ấn Độ đạt 93,13 triệu USD, tăng 3,87 lần so với cùng kỳ năm 2022; kim ngạch XK sang Indonesia đạt gần 77,76 triệu USD, tăng 2,78 lần so với cùng kỳ 2022.
Phân tích về chủng loại sản phẩm, TS Tô Xuân Phúc cho hay trong 10 tháng năm 2023, các mặt hàng có kim ngạch XK lớn bao gồm: đồ gỗ, ghế ngồi, dăm gỗ. Trong đó, lớn nhất là đồ gỗ (HS 9403) XK đạt 4,23 tỷ USD, chiếm 39,68% tổng kim ngạch XK gỗ và sản phẩm gỗ, giảm 27,2% so với cùng kỳ năm 2022.
Có dấu hiệu phục hồi nhưng khó khăn chưa hết
Theo Chủ tịch VIFOREST Đỗ Xuân Lập, thị trường hiện đã có một số dấu hiệu hồi phục, tuy nhiên nhận định năm 2024 vẫn tiềm ẩn một số khó khăn. Bên cạnh các khó khăn về đầu ra thị trường, ngành gỗ đang đối mặt với một số vấn đề thời sự ảnh hưởng trực tiếp đến tính bền vững của ngành.
Cụ thể, các thị trường XK lớn ngày càng có các quy định chặt chẽ hơn về tính hợp pháp và bền vững của sản phẩm. Cụ thể, Quy định chống phá rừng của EU (EU Deforestation Regulation, EUDR) có hiệu lực từ cuối tháng 6/2023 quy định các sản phẩm nhập khẩu (NK) vào thị trường này phải bảo đảm tính hợp pháp và không gây mất rừng.
Bên cạnh đó là yêu cầu cả ở trong nước và tại các thị trường XK về mức phát thải carbon thấp trong các hoạt động của toàn chuỗi cung ứng, sẽ khiến sản phẩm có hàm lượng carbon cao trở nên mất tính cạnh tranh trên thị trường.
Một khó khăn nữa xuất phát từ thực tế là mỗi năm Việt Nam NK khoảng 1,5 - 2 triệu m3 gỗ tròn và gỗ xẻ có nguồn gốc từ các quốc gia nhiệt đới, là gỗ rủi ro về pháp lý, chiếm 30 - 40% tổng lượng gỗ nguyên liệu NK của cả ngành. Điều này không chỉ tác động tiêu cực tới hình ảnh của toàn ngành gỗ Việt mà còn làm mất đi cơ hội trong việc sử dụng gỗ NK rủi ro thấp và đặc biệt là nguồn gỗ rừng trồng trong nước…
Chủ tịch VIFOREST Đỗ Xuân Lập nhận định, năm 2024 ngành gỗ vẫn nằm trong thế có nhiều bất ổn, do đó, về tổng thể, dự báo, ngành gỗ có tăng trưởng chậm nhưng không nhiều, khoảng 10 - 12% so với những quý cuối năm 2023. “Giải pháp trọng tâm nhất trong năm 2024 đó là tạo ra hình ảnh ngành gỗ Việt Nam phát triển bền vững, dựa trên yếu tố cơ bản là sử dụng gỗ có chứng chỉ và sản phẩm giảm phát thải…” - Chủ tịch Đỗ Xuân Lập nhấn mạnh.
Hoàn thiện khung khổ pháp lý
Ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) cho biết, để đáp ứng các yêu cầu từ nhà nhập khẩu, Chính phủ Việt Nam đã tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và quy định nhằm triển khai Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp của Việt Nam (VNTLAS) và Thỏa thuận 301 (Hoa Kỳ).
Thông tư 26/2022/TT-BNNPTNT quy định quản lý và truy xuất nguồn gốc lâm sản được ban hành thay thế Thông tư 27/2018/TT-BNNPTNT và có hiệu lực vào tháng 1/2023, tập trung cho công tác quản lý và truy xuất nguồn gốc lâm sản liên quan đến các cấu phần kiểm soát chuỗi cung ứng gỗ của VNTLAS. Trong thời gian tới, Thông tư 21/2021/TT-BNNPTNT quy định chi tiết việc phân loại DN chế biến và XK gỗ sẽ được tiếp tục sửa đổi, bổ sung nhằm mở rộng phạm vi và đối tượng được phân loại theo cam kết triển khai hệ thống phân loại các tổ chức (OCS) của VPA/FLEGT.