Bài toán nào cho lương tối thiểu tại Việt Nam?

Tại hội thảo các chuyên gia kinh tế e ngại việc lương tối thiểu tăng nhanh hơn năng suất lao động khiến chi phí DN tăng lên dẫn tới nhiều lao động bị thất nghiệp, nhà đầu tư rời bỏ thị trường Việt Nam
Tại hội thảo các chuyên gia kinh tế e ngại việc lương tối thiểu tăng nhanh hơn năng suất lao động khiến chi phí DN tăng lên dẫn tới nhiều lao động bị thất nghiệp, nhà đầu tư rời bỏ thị trường Việt Nam
(PLO) - Những năm gần đây, lương tối thiểu tại Việt Nam tăng liên tục với tốc độ khá nhanh ở mức 11-70% mỗi năm (mức tăng khác biệt theo vùng), trung bình đạt xấp xỉ 20%, vượt xa tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người và chỉ số giá tiêu dùng, trong khi đó năng suất lao động vẫn còn thấp. 

Các chuyên gia kinh tế lo ngại với đà tăng của lương tối thiểu cao hơn mức tăng năng suất lao động sẽ tác động xấu đến nền kinh tế. 

Lương vượt năng suất lao động

Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), lương tối thiểu tăng ở mức trung bình hàng năm của Việt Nam đạt 2 con số trong giai đoạn 2007-2015, vượt xa tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người và chỉ số giá tiêu dùng. 

Cũng trong giai đoạn này, tốc độ tăng lương tối thiểu cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Cụ thể, tỷ lệ lương tối thiểu trên năng suất lao động tăng nhanh, từ 25% năm 2007 đạt mức 50% năm 2015. Xu hướng này không giống với các quốc gia khác như Trung Quốc, Indonesia hay Thái Lan. Khoảng cách giữa tăng trưởng lương tối thiểu và tăng trưởng năng suất lao động ở Việt Nam đang nhanh hơn so với các quốc gia khác.

Từ năm 2007 - 2015, lương trung bình tại Việt Nam tăng 1,5 lần (mức tăng là hai lần trong giai đoạn 2004 - 2015). Lương trung bình tăng nhanh đến năm 2010 nhưng chậm lại đáng kể trong giai đoạn 2010 - 2014, phần nào phản ánh sự suy giảm tăng trưởng kinh tế.

Về mối quan hệ giữa lương trung bình và năng suất lao động tại Việt Nam, TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR cho biết, trong giai đoạn 2004 - 2015, năng suất lao động của Việt Nam tăng đáng kể với mức tăng trung bình đạt 4,4%. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng bình quân của lương (5,8%) vượt tốc độ tăng năng suất lao động

Chỉ riêng năm 2017, chi phí tối thiểu các doanh nghiệp tại Việt Nam phải gánh chịu, được tính bằng tổng lương tối thiểu và đóng góp vào các khoản bảo hiểm (bao gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp) gần chạm mức chi phí tại Thái Lan và cao hơn mức chi phí tại Indonesia.

Theo TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR, trong trường hợp những lợi ích từ các khoản đóng góp này không được nhìn nhận bởi người lao động (NLĐ), khoản đóng góp bảo hiểm khá lớn ở Việt Nam có thể tạo ra những “khoảng trống thuế” (nêm thuế ) giữa chi phí lao động mà doanh nghiệp (DN) phải gánh chịu với khoản thu nhập thực tế của NLĐ.

Liên quan tới vấn đề trên, bà Phan Thị Thanh Xuân, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Da – Giày – Túi xách Việt Nam chia sẻ, tiền lương là chi phí trả cho NLĐ để tái tạo sức lao động, khi lương tăng sẽ là động lực để NLĐ làm việc hăng hái hơn, tích cực hơn. Tuy nhiên, có một thực tế hiện nay, mức tiền lương tối thiểu luôn được điều chỉnh tăng định kỳ hàng năm, song năng suất, chất lượng lao động của Việt Nam lại chưa ghi nhận những mức tăng tương ứng.

Phá vỡ sự cân bằng của nền kinh tế

Các chuyên gia kinh tế nhận định rằng mức chênh lệch giữa tăng trưởng năng suất lao động với lương tối thiểu và lương trung bình, nếu tiếp tục kéo dài, sẽ từ từ phá vỡ cân bằng trên nhiều khía cạnh của nền kinh tế, đặc biệt là cản trở tích lũy vốn con người, giảm động lực của nhà đầu tư, lợi nhuận của DN và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Theo TS. Nguyễn Tiến Dũng (VEPR), hiện 50% lao động Việt Nam không được ký kết hợp đồng, số lao động này chủ yếu làm việc tại các hộ kinh doanh gia đình, lao động tự do, lao động làm việc tại các khu vực kinh tế nhỏ và vừa. Việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu hiện nay không đảm bảo phân phối công bằng vì số lao động không có hợp đồng không được áp dụng mức lương tối thiểu.

TS. Futoshi Yamauchi, Chuyên gia kinh tế cao cấp của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Hoa Kỳ cho hay: “Tăng lương tối thiểu của Việt Nam hiện nay tiêu cực nhiều hơn là tích cực, về góc độ kích thích đầu tư, tăng lương 1% sẽ khiến tỷ lệ lợi nhuận/doanh thu của DN giảm đi 2,3%”.

Hiện nay, theo nghiên cứu của WB, nếu mức tăng lương lao động tối thiểu hoặc lương lao động trung bình cao hơn thì có thể khiến tác động tiêu cực đến chính lao động nghèo. Cụ thể, để giảm chi phí lao động, các DN sẽ sử dụng ngày càng nhiều máy móc thay vì sử dụng lao động như trước kia. Những ngành thâm dụng lao động như dệt may, thủy hải sản, lắp ráp điện tử... sẽ phải bắt buộc đầu tư mua sắm các dây chuyền, máy móc tự động để giảm chi phí. 

Ông Fujita Yasuo, Trưởng Đại diện Văn phòng JICA Việt Nam cũng bày tỏ, tăng lương nhưng năng suất lao động không tăng tương ứng sẽ làm tăng chi phí của các doanh nghiệp, đồng thời giảm khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế. Việt Nam cần chú ý đến cơ chế tiền lương, điều chỉnh lương tối thiểu cho phù hợp.

“Lương tối thiểu không bảo vệ NLĐ và không công bằng đối với người không được bảo vệ bởi lương tối thiểu (người không có hợp đồng lao động). Bước đầu, có thể coi tăng lương tối thiểu là thất bại của chính sách. Hơn nữa, tăng lương nhưng năng suất lao động không tăng tương ứng sẽ làm tăng chi phí của các DN, đồng thời làm giảm khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế”. TS. Nguyễn Đức Thành nhấn mạnh.

* Ông Trương Đình Tuyển – nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại:

Bỏ lương tối thiểu, tăng chính sách bảo trợ xã hội

“Nếu coi lương tối thiểu là chính sách xã hội thì “không đúng”. Trong thực tế, nếu tăng lương tối thiểu thêm 50%, người lao động vẫn không đủ sống, do vậy các cơ quan chức năng nên nghiên cứu cơ chế lương thỏa thuận, khuyến khích người lao động có kỹ năng thì được tăng lương. Chúng ta nên nghiên cứu bỏ lương tối thiểu, đồng thời với tăng chính sách bảo trợ xã hội hay là giảm bớt cải cách thủ tục hành chính để bớt lương đi”.

* Chuyên gia Kinh tế Phạm Chi Lan:

Chính phủ cần lập cơ quan đặc biệt để tăng năng suất lao động tổng thể

“Năng suất lao động Việt Nam không chỉ do yếu tố tiền lương tác động mà còn rất nhiều yếu tố khác. Theo Báo cáo Việt Nam 2035 của Ngân hàng Thế giới phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Chính phủ Việt Nam đưa ra thì trong 4 nỗi lo lớn của Việt Nam, về dài hạn trong 20 năm phát triển thì nỗi lo số 1 là năng suất lao động thấp và suy giảm. Lỗi lo thứ 2 về đổi mới sáng tạo và công nghệ quá thấp. 3. Tăng trưởng xám. 4. Các vấn đề về xã hội và hệ thống nhà nước. 

Chính vì vậy, để giải quyết nỗi lo lớn nhất về năng suất lao động, yếu tố tiền lương phải phục vụ cho năng suất lao động, tiền lương gắn liền với tăng năng suất lao động. Năng suất lao động Việt Nam là vấn đề của tất cả các ngành của Việt Nam: Nông nghiệp – Công nghiệp – Dịch vụ năng suất đều thấp, cả 3 khu vực kinh tế: DN nhà nước, DN tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài đều có năng suất tương đối thấp, kể cả đầu tư nước ngoài, mặc dù có khá hơn so với 2 khu vực kia nhưng vẫn thấp so với các nước khác mà có mức đầu tư nước ngoài tương quan. Đây là vấn nạn chung của nền kinh tế… Không phải tiền lương tối thiểu tăng lên là năng suất lao động tăng lên. Nếu năng suất lao động tổng thể không tăng thì không có lý do tăng lương tối thiểu liên tục như vừa rồi, có khi tác động ngược làm giảm chi phí và DN rút bớt việc làm và làm suy giảm sức cạnh tranh… Chính vì vậy, cần phải có đơn vị chích sách khác liên quan đến tăng năng suất lao động tổng thể của Việt Nam”.

* Ông Mai Đức Chính – Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam:

So sánh tiền lương trong khu vực công nghiệp với năng suất lao động xã hội là khập khiễng

“Hiện các doanh nghiệp đang lợi dụng tiền lương tối thiểu để làm cơ sở đóng bảo hiểm xã hội (BHXH), làm cho tiền lương tối thiểu méo mó. Đến 1/1/2018, Luật BHXH quy định đóng BHXH trên lương thực tế thì lương tối thiểu chỉ là mức sàn để người lao động được hưởng.

Theo khảo sát của Liên đoàn Lao động tại một số khu công nghiệp, nhận thấy lương của 2 vợ chồng công nhân 10 triệu đồng mỗi tháng là không đủ sống… Chúng tôi khảo sát và thấy rằng chỉ 16% người lao động có tích lũy, đa số công nhân phải sống tằn tiện kham khổ, 2% sống không đủ sống. Đúng ra Điều 91 phải thực hiện từ năm 2013, nhưng lùi từ năm 2015 đến nay vẫn chưa đảm bảo được lương tối thiểu đảm bảo mức sống tối thiểu.

Nếu lương tối thiểu đã đủ sống thì hàng năm chỉ điều chỉnh theo GDP… lúc đó có thể chỉ tăng 3-4% chứ không phải tăng 7-8% như bây giờ. Tỷ lệ 4,4% là năng suất lao động xã hội. Báo cáo lấy lương tối thiểu trong khu vực công nghiệp để so với năng suất lao động xã hội là chưa phù hợp”.

* TS. Nguyễn Đức Thành – Viện trưởng Viện Nghiên cứu chính sách (VEPR):

Lương tối thiểu nên chuyển sang hệ thống lương tối thiểu theo giờ

“Việt Nam cần chú ý đến cơ chế tiền lương, lương tối thiểu nên chuyển sang hệ thống lương tối thiểu theo giờ. Điều này đảm bảo cho những người làm việc theo giờ hoặc theo ngày đều có thể hưởng đầy đủ các quyền lợi của họ, đồng thời cho phép các nhà tuyển dụng linh hoạt hơn trong việc sử dụng lao động; Hội đồng tiền lương quốc gia cũng nên có sự tham gia của các chuyên gia, có chuyên môn sâu về kinh tế vĩ mô và kinh tế lao động, có khả năng đánh giá tác động của mức lương tối thiểu đổi với việc làm, thu nhập trước/sau khi điều chỉnh lương tối thiểu. Điều này khá phổ biến tại một số quốc gia trong khu vực, VD: Nhật Bản, Indonesia, Malaysia…Hoặc Chính phủ cũng có thể phát triển thêm công cụ giám sát hiệu quả năng suất trong các ngành và khu vực kinh tế khác nhau…”. 

Đọc thêm

Tận dụng tối đa cơ hội từ các FTA thế hệ mới, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng bền vững

Hình ảnh minh họa.
(PLVN) - Việt Nam cần tập trung vào các mục tiêu cụ thể để giải quyết hiệu quả các thách thức trọng tâm trong việc thực thi các FTA thế hệ mới, nhằm tận dụng các cơ hội đang có và khắc phục một số hạn chế, qua đó hướng đến thúc đẩy nền kinh tế phục hồi và phát triển theo hướng bền vững.

Hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu tiếp cận và thích ứng với xu hướng chuyển đổi xanh của EU

Bà Trịnh Thị Thu Hiền, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu – Bộ Công Thương phát biểu khai mạc.
(PLVN) -  Xuất khẩu sang thị trường EU có nhiều lợi thế từ việc tận dụng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu ( Hiệp định EVFTA ). Tuy nhiên, EU là thị trường khó tính trong việc áp dụng quy định về hàng rào phi thuế quan, đặc biệt là tiêu chuẩn kỹ thuật và phát triển bền vững.

Lưu ý quan trọng cho doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản sang Trung Đông

Năm 2024, xuất khẩu thuỷ sản sang Trung Đông dự kiến đạt hơn 360 triệu USD. (Ảnh minh hoạ)
(PLVN) - Trong 11 tháng năm 2024, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Trung Đông đạt 334 triệu USD, chiếm gần 4% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của cả nước. Dự kiến, năm 2024, xuất khẩu sang thị trường này ước đạt hơn 360 triệu USD, nằm trong top 2 thị trường nhập khẩu thuỷ sản có tăng trưởng mạnh nhất sau Trung Quốc.

Gia tăng hiệu quả ứng phó với điều tra phòng vệ thương mại

Thép là mặt hàng có tần suất bị điều tra phòng vệ thương mại lớn nhất. (Ảnh minh họa: MOIT)
(PLVN) - Số lượng các vụ kiện phòng vệ thương mại (PVTM) ở các thị trường lớn đang gia tăng, sẽ tác động rất lớn đến kim ngạch xuất khẩu. Do đó, Bộ Công Thương tiếp tục đẩy mạnh các biện pháp PVTM để ứng phó với các vụ việc do nước ngoài điều tra và áp dụng đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.

7 vấn đề khuyến nghị các doanh nghiệp, hiệp hội về phòng vệ thương mại trong Hiệp định EVFTA và các FTA thế hệ mới

Bộ Công Thương đang triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng tốt những ưu đãi từ EVFTA cũng như các FTA thế hệ mới.
(PLVN) - Bộ Công Thương đang triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng tốt những ưu đãi từ EVFTA cũng như các FTA thế hệ mới. Đại diện Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương đã đưa ra 7 vấn đề khuyến nghị các doanh nghiệp, hiệp hội xử lý hiệu quả các biện pháp phòng vệ thương mại.

FTA Index: Công cụ giúp Bắc Giang khai phá thị trường tiềm năng và sản phẩm xuất khẩu

Lĩnh vực công nghiệp điện tử tại Bắc Giang rất phát triển.
(PLVN) - Đối với Bắc Giang (BG), FTA Index có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng thương mại và đầu tư. Việc áp dụng các chỉ số FTA Index giúp Bắc Giang hiểu rõ hơn về các cơ hội và thách thức trong việc tận dụng các FTA, từ đó có thể đưa ra các chiến lược phù hợp để phát triển kinh tế, gia tăng xuất khẩu và thu hút đầu tư.

Dự báo lãi suất xu hướng tăng đến cuối năm

Dự báo ngân hàng sẽ “hút” mạnh tiền gửi dịp cuối năm. (Ảnh: TBNH)
(PLVN) -  Với việc các ngân hàng đang đồng loạt tăng lãi suất, lượng tiền gửi vào các ngân hàng cũng tăng đều theo từng tháng, các chuyên gia dự báo trong giai đoạn này, xu hướng dòng tiền đã quay trở lại sản xuất.

Hiện thực hóa chủ trương phát triển công nghiệp bán dẫn

Ảnh minh hoạ.
(PLVN) - Phát triển lĩnh vực bán dẫn là đột phá chiến lược và cũng là nhiệm vụ trọng tâm, là việc cần làm, phải làm và quyết tâm làm bằng được. Đó là chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khi giao nhiệm vụ chung và các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể với các Bộ, ngành, địa phương, tại Phiên họp lần thứ nhất vừa diễn ra của Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển ngành công nghiệp bán dẫn.

Ngành Hải quan phải hướng tới mục tiêu kép

Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng phát biểu chỉ đạo Hội nghị. (Ảnh: H.P)
(PLVN) - Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng, trong thời gian tới, ngành Hải quan phải nỗ lực giải quyết thách thức, vừa đơn giản hóa thủ tục, vừa tăng cường phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại để hướng tới mục tiêu kép: tạo thuận lợi thương mại tối đa vừa đảm bảo an ninh quốc gia vừa chống thất thu ngân sách cao nhất.

Anh gia nhập CPTPP sẽ tạo động lực mới trong quan hệ song phương Việt Nam - Anh

Ngành thủy sản sẽ có được những thuận lợi rất lớn khi cam kết chính thức có hiệu lực.
(PLVN) - Ngày 15/12, Vương quốc Anh đã trở thành quốc gia châu Âu đầu tiên gia nhập Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Việc Vương quốc Anh tham gia Hiệp định CPTPP đánh dấu một chương mới trong quan hệ kinh tế, thương mại giữa các nước trong khu vực nói chung và giữa Việt Nam - Anh nói riêng, mở ra cơ hội tăng cường thương mại, thu hút đầu tư và đẩy mạnh hợp tác trên nhiều lĩnh vực.