Hội thảo nhằm chia sẻ kinh nghiệm hay trong sản xuất tôm - lúa, tôm - rừng và những mô hình sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu (BĐKH); đưa ra những giải pháp kỹ thuật hạn chế rủi ro trong sản xuất nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế.
Từ 2001, Bạc Liêu đã bắt đầu tổ chức sản xuất mô hình tôm - lúa, từ 5.851ha sản xuất ban đầu đã tăng lên 39.578ha vào 2020. Đến 2024 diện tích mô hình này đạt 46.489ha, định hướng đến 2030 là 60.000ha.
Theo Sở NN&PTNT, năm 2023 và những tháng đầu năm 2024, tỉnh đối diện với nhiều khó khăn, thách thức do BĐKH, thời tiết cực đoan diễn biến phức tạp, vật tư nông nghiệp phục vụ sản xuất tăng... Nhưng các địa phương, người dân, DN đã có nhiều phương pháp sản xuất mới, tiến bộ trong canh tác như lựa chọn con giống đạt chất lượng, nuôi tôm 2 giai đoạn, kết hợp hài hòa phân vô - hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao.
Ông Nguyễn Trung Hiếu, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT cho biết, nhằm nâng cao khả năng chống chịu BĐKH hệ sinh thái nông nghiệp và cộng đồng địa phương, thông qua mô hình luân canh tôm - lúa cải tiến thích ứng BĐKH, dự án của WWF đã bám sát nhóm mục tiêu, nhu cầu của người dân, từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất trước tác động của BĐKH, tạo thu nhập, nâng cao đời sống cho người tham gia.
Từ đầu 2023 đến nay, thông qua sự hỗ trợ của dự án trên, đã triển khai hỗ trợ một số HTX tại huyện Hồng Dân, Phước Long, TX Giá Rai... về ứng dụng khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất nâng cao năng suất mô hình luân canh tôm - lúa; khẳng định được tính phù hợp, đúng hướng, hiệu quả. Đây là tiền đề, bước đệm quan trọng để địa phương tiếp tục chỉ đạo duy trì nhân rộng mô hình trong các năm tiếp theo.
Để thúc đẩy phát triển nông nghiệp thích ứng BĐKH, Sở NN&PTNT đã tham mưu UBND tỉnh ban hành kế hoạch thực hiện đề án phát triển bền vững diện tích lúa chuyên canh chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh đến năm 2030; mô hình canh tác lúa thông minh thích ứng BĐKH; tăng cường giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường; phát triển ổn định, bền vững mô hình nuôi tôm sinh thái, nuôi tôm sạch.
Đồng thời, củng cố, phát triển mô hình tôm - rừng theo hướng vừa bảo vệ môi trường sinh thái, vừa giúp giải quyết vấn đề giảm phát thải khí nhà kính, vừa tăng thu nhập cho người dân sống trong rừng, hạn chế tình trạng phá rừng. Tiếp tục xây dựng các cánh đồng lúa lớn, nâng cao hiệu quả chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ; xây dựng chỉ dẫn địa lý, thương hiệu sản phẩm “lúa thơm, tôm sạch”.
Tại Hội thảo, các đại biểu chia sẻ thực trạng sản xuất tôm - lúa; đánh giá hiệu quả kinh tế, môi trường và giải pháp cải tiến kỹ thuật mô hình luân canh tôm - lúa; chia sẻ kinh nghiệm triển khai đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chất lượng cao”; hiệu quả kinh tế, môi trường với mô hình kết hợp tôm - rừng. Đồng thời, WWF Việt Nam cũng chia sẻ kết quả, đánh giá hiệu quả về môi trường, giảm phát thải với giải pháp cải tiến mô hình luân canh tôm - lúa, tôm - rừng.
Liên quan lĩnh vực, UBND tỉnh Tiền Giang cũng vừa tổ chức Hội thảo “Nâng cao năng lực chế biến và xuất khẩu lúa gạo tỉnh Tiền Giang”.
Diện tích sản xuất nông nghiệp tại Tiền Giang hiện hơn 177.000ha. Tổng sản lượng xuất khẩu gạo của tỉnh giai đoạn 2018 - 2022 đạt trên 993.000 tấn với kim ngạch đạt khoảng 521 triệu USD. Toàn tỉnh có khoảng 500 DN chuyên doanh xay xát, chế biến lúa gạo tiêu dùng và xuất khẩu. Có khoảng 20 DN đã đầu tư dây chuyền tự động hóa từ phơi sấy, phân loại, đánh bóng, tách màu, chọn hạt đến đóng gói sản phẩm.
Với sản lượng xay xát gạo hơn 2 triệu tấn/năm, Tiền Giang là một trong những trung tâm tiêu thụ lúa hàng hóa và cung ứng gạo lớn cho thị trường trong nước lẫn xuất khẩu của vùng ĐBSCL. Năm 2023, xuất khẩu gạo đạt hơn 175.000 tấn kim ngạch trên 105 triệu USD. Riêng 6 tháng đầu năm 2024, ước đạt trên 81.000 tấn trị giá đạt trên 52 triệu USD, giảm 24,15% về lượng và giảm 18,22% về trị giá so với cùng kỳ.
Nguyên nhân do hiện tại giá gạo Việt Nam cao nên nhà nhập khẩu lựa chọn mua của các nước khác. Ngoài ra, các đối tác nhập khẩu tìm cách trì hoãn đặt hàng để hạ giá do đang thu hoạch rộ lúa cho vụ Đông Xuân. Còn lượng lớn nhà máy chế biến lúa gạo sử dụng công nghệ truyền thống, hiệu quả chưa cao, chưa đầu tư máy tách màu. Chính sách tín dụng một số ngân hàng chưa linh hoạt, lãi suất còn cao, chưa hỗ trợ kịp thời khi các DN có nhu cầu.
Từ thực trạng hoạt động chế biến xuất khẩu gạo trên địa bàn, Hội thảo đã đi sâu thảo luận các vấn đề trọng tâm như dự báo thị trường và nâng cao giá trị lúa gạo qua chế biến xuất khẩu; mối liên hệ giữa năng lực các nhà quản lý logistic và hiệu quả hoạt động của DN; nâng cao giá trị các sản phẩm chế biến từ gạo; hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ trong chuỗi sản xuất chế biến, xuất khẩu gạo; các giải pháp thúc đẩy ngành lúa gạo tỉnh Tiền Giang phát triển bền vững.