Ba “nút thắt cổ chai” nền kinh tế vi mô Việt Nam
“Các chính sách mà Việt Nam theo đuổi kể từ năm 1986, về nhiều mặt, đã chứng tỏ sự thành công to lớn. Song điều đó không có nghĩa những gì đã phát huy tác dụng trong quá khứ sẽ tiếp tục phát huy tác dụng trong tương lai. Đã đến lúc Việt Nam cần phải bước sang một chương mới.." “cha đẻ’ của chiến lược cạnh tranh GS Michael Porter, nhận định.
“Các chính sách mà Việt Nam theo đuổi kể từ năm 1986, về nhiều mặt, đã chứng tỏ sự thành công to lớn. Song điều đó không có nghĩa những gì đã phát huy tác dụng trong quá khứ sẽ tiếp tục phát huy tác dụng trong tương lai. Đã đến lúc Việt Nam cần phải bước sang một chương mới…”, GS Michael Porter, một trong những giáo sư lỗi lạc nhất của Đại học Havard, người được xem là “cha đẻ’ của chiến lược cạnh tranh, đưa ra khuyến nghị tại buổi công bố Báo cáo Năng lực cạnh tranh Việt Nam 2010 diễn ra hôm qua (30/11) tại Hà Nội.
Lợi thế cạnh tranh đang giảm dần
Bản báo cáo được thực hiện lần đầu tiên này cho thấy, Việt Nam đã đạt được sự tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong hơn hai thập kỷ qua, tuy nhiên, thu nhập bình quân đầu người của nước ta hiện “vẫn còn thấp hơn nhiều so với hơn 100 quốc gia khác trên thế giới”, chưa kể sự chênh lệch về mức độ phát triển giữa các vùng miền đang tăng lên…
“Rõ ràng Việt Nam chưa có nền tảng tốt để tạo ra năng lực cạnh tranh (NLCT) nên thu nhập bình quân đầu người mới thấp như vậy” - GS Porter phát biểu. Điều này được phần nào lý giải do năng suất lao động của Việt Nam hiện vẫn thấp hơn so với nhiều quốc gia khác. “Sự tăng năng suất lao động của Việt Nam chủ yếu là do kết quả của gia tăng vốn đầu tư cùng với sự dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang khu vực chế biến, chế tạo và dịch vụ. Mặc dù quá trình này đã phát huy tác dụng trong thời gian qua và vẫn có thể phát huy tác dụng thêm một thời gian nữa, nhưng dư địa còn lại không nhiều…”- GS Porter nhận xét.
![]() |
| GS Porter . |
GS Porter đặc biệt lưu ý 3 “nút thắt cổ chai” về kinh tế vi mô của Việt Nam hiện nay, đó là: thiếu hụt kỹ năng lao động và hạ tầng, tỷ lệ giải ngân và tác động lan toả tích cực của khu vực FDI thấp và mối quan hệ giảm dần giữa đầu tư và tăng trưởng. Theo GS Porter, những “nút thắt cổ chai” này là dấu hiệu cho thấy mô hình tăng trưởng hiện nay đang mất dần động lực. “Mặc dù các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam đã nhận diện tương đối chính xác những nút thắt này – ba trụ cột chính trong chiến lược mười năm đều phản ánh đúng những vấn đề trọng tâm, nhưng hiệu lực thực thi các chính sách được đưa ra cho tới nay là chưa cao..”- GS Porter thẳng thắn.
Phân tích các yếu tố nền tảng của NLCT của Việt Nam, GS Porter cũng tỏ ra lo ngại khi cho rằng khu vực xuất khẩu có hàm lượng giá trị gia tăng thấp và lợi thế cạnh tranh về giá của Việt Nam đang giảm dần. “Trong khi năng suất chỉ được cải thiện không đáng kể nhờ nâng cấp cơ sở hạ tầng, thì chi phí và lạm phát lại tăng nhanh hơn. Lợi thế cạnh tranh về giá của Việt Nam đang dần mất đi khi các quốc gia khác cũng đang cố gắng cạnh tranh bằng việc cung cấp một lượng lớn lao động giá rẻ…”- GS Porter phân tích.
Đến lúc áp dụng nguyên tắc mới
“Các chính sách mà Việt Nam theo đuổi kể từ năm 1986, về nhiều mặt, đã chứng tỏ sự thành công to lớn. Song điều đó không có nghĩa những gì đã phát huy tác dụng trong quá khứ sẽ tiếp tục phát huy tác dụng trong tương lai. Đã đến lúc Việt Nam cần phải bước sang một chương mới…”- GS Porter khuyến nghị.
Theo GS Porter, trước hết, tăng trưởng tương lai của Việt Nam cần vượt lên trên việc khai thác những lợi thế sẵn có; tức là phải vừa dựa trên việc nâng cấp những lợi thế hiện có và tạo dựng các lợi thế cạnh tranh mới. Điều này đòi hỏi phải thay đổi các điều kiện vĩ mô và vi mô thúc đẩy tăng năng suất lao động. “Những thảo luận chính sách hiện nay ở Việt Nam hầu như chưa hướng tới mục tiêu này. Trọng tâm chính sách vẫn đang hướng nhiều vào duy trì tốc độ tăng trưởng ngắn hạn về lượng hơn là duy trì tăng trưởng dựa trên nâng cao năng suất trong dài hạn, mang tính bền vững. Nhiều chính sách vĩ mô có thể kích thích tăng trưởng ngắn hạn nhưng lại không có tác dụng hoặc thậm chí gây ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng năng suất dài hạn của nền kinh tế”- GS nhận xét.
Nguyên tắc thứ hai, Chính phủ Việt Nam cần xác định được một vai trò mới cho mình, phù hợp với yêu cầu của một nền kinh tế thị trường năng động, đang trỗi dậy và đang hội nhập ngày càng sâu rộng. Với vai trò này, Chính phủ sẽ đảm nhận những công việc tạo điều kiện và đảm bảo thị trường được vận hành theo nguyên tắc của nó.
Chính phủ sẽ cung cấp một môi trường thể chế minh bạch và hiệu quả trong đó các DN thuộc mọi thành phần cạnh tranh với nhau một cách bình đẳng trên mọi mặt. Chính phủ cần một cách tiếp cận hiệu quả trong việc cung cấp các hàng hoá, dịch vụ công như cơ sở hạ tầng, giáo dục và các quy định chính sách để vừa phản ánh được ý chí chính trị của mình vừa phản ánh được nhu cầu của các DN và người dân. “Tóm lại, vai trò của Chính phủ cần hướng tới là tạo ra một điểm đến kinh doanh với các lợi thế cạnh tranh rõ ràng…”- GS Porter lưu ý.
Một nguyên tắc cũng không kém phần quan trọng, Việt Nam cần tạo lập một môi trường KT có sự hiện diện cân bằng, hài hoà của cả khu vực DNNN, tư nhân và nước ngoài. Cần có sự cạnh tranh bình đẳng giữa các khu vực này, từ đó cho phép những DN có đóng góp nhiều nhất vào sự thịnh vượng và hiệu quả của nền kinh tế được phát triển.
“Thay đổi cách tiếp cận trong chính sách không chỉ là thay đổi chi tiết, nội dung của các chính sách mà còn là việc áp dụng các nguyên tắc mới – những nguyên tắc sẽ chỉ đạo và chi phối việc xây dựng các chính sách cụ thể và đưa chúng vào triển khai thực hiện..”- GS Porter nhấn mạnh.
Linh Lan
