Ba dây khắc khoải

                                                                     Truyện ngắn của Phạm Vân Anh

 

 

Căn nhà ngói ba gian của ông Liễn nằm trong khu vườn trồng hải đường. Đương xuân, hải đường đã nở gần hết, lá hải đường to bản, gân cánh, xanh thẫm loà xoà đan vào nhau líu ríu. Mấy chục năm nay vườn nhà  ông trồng toàn hải đường, cuối năm có người hỏi mua không bán mà chỉ dành tặng người thân và bè bạn. Gốc hải đường lâu năm trơ khấc, khô lì và gân guốc cho hoa ít và nhỏ. Đã đến lúc phải thay cây nhưng ông cứ lần lữa, định qua năm nay sẽ chiết cành bánh tẻ trồng sang mé vườn phía tây chứ bảo ông chặt hạ những gốc hải đường già chỗ vườn này, ông thực không nỡ.

Tiếng gõ đều đặn trong nhà vọng ra hơi chững lại, tay gõ rối. Ông thả cành hải đường cho nó vọt lên rồi quay vào nhà, bảo cháu:  

- Con đánh lại phách đi, như thế chưa được. Nhìn ông làm mẫu này: tà phách tà phách tà phách phách phách, phách phách phách, phách phách tà phách chát, phách phách tà phách phách. Đấy, cái khổ giải nó phải đánh như thế. Tay nặng, tay nhẹ, đánh giữ nhịp phải chuẩn thì mới vào đàn được. Cái phách đôi này là phách dẹt nên tiếng đanh mỏng, còn cái phách tròn thì tiếng đục. Phải gõ làm sao mà chỉ có hai tay phách đó thôi mà hoà quyện, đan xen thành một tổng hoà những âm điệu rộn ràng.

Đứa cháu gái trạc 14 tuổi làm theo ông, dáng điệu mỏi mệt:

-  …Tà phách…tà phách…Con đánh thế đã đúng chưa ông.

Ông Liễn chậm rãi

 - Muốn phách giòn, nhuyễn thì phải tập luyện liên tục. Khi đã thuộc phách đúng nhịp rồi thì phải tập bằng cảm âm của đôi tay chứ đừng dựa vào đôi tai vì đôi tai dễ đánh lừa mình. Khi nào con gõ được bằng cảm âm của đôi tay, gõ mà như múa phách, như reo vui thì lúc ấy mới đạt.

- Ông ơi, làm sao mà gõ như thế được. Cháu tập mãi mà vẫn chỉ như đập gỗ thôi, cho cháu nghỉ nhá. - đứa cháu buông phách, vờ nhăn nhó làm nũng ông.

- Phải chịu khó cháu ạ. Ông còn nhớ ngày xưa khi bạn đồng môn của ông học phách, bà trùm ngồi cạnh cầm một chiếc thước gỗ. Sai phách là bà ấy vụt thẳng vào mấy đốt ngón tay đến toé máu. Có người vừa gõ phách mà máu chảy đầy tay. Ông ngồi đàn mà chẳng dám nhìn.

- Eo ôi, khó thế thì cháu chịu thôi. Cháu …

Đứa cháu chưa nói hết câu, ông đã ra đến sân. Cả buổi chiều, ông vít cong cành hải đường có đến mấy lần mà không sao bọc nổi nắm đất. Cành hải đường to chừng ngón chân cái bị tước một khoanh vỏ trắng xanh, từng giọt nhựa thay nhau chảy thành dòng trắng đục trên thân cây nâu sần, thô ráp. Tối hôm ấy ông trải chiếu nằm khàn giữa sân, đoạn thân trắng trên cành hải đường như vết thương mới loác miệng, nhợt nhạt thiếu máu.

Nửa đêm, nhà chỉ còn ngọn đèn dầu nhỏ trên ban thờ hắt bóng những chân hương tua tủa. Giường trong, Mai - đứa cháu ông đã ngủ say. Chỉ có ông Liễn là trằn trọc mãi không nhắm được mắt, hết quay ra lại quay vào. Ông thở dài rồi trở dậy, vén màn bước xuống giường khẽ lại gần ban thờ, vặn to ngọn đèn dầu rồi rút hương châm lửa cắm vào mấy bát hương. Sáng nay khi lên huyện bàn với mấy anh phụ trách văn hoá cơ sở về việc bảo tồn và truyền dạy nghệ thuật ca trù, ông đã gặp lại người ca nữ xưa từng làm với ông tại ca quán Thanh Tân của bà trùm Đoan. Người đàn bà bé nhỏ, tóc vấn trần theo lối cổ đứng nép dưới gốc cây hoàng lan trong sân nhà văn hoá chờ ông từ sớm. Ông không nhận ra bà. Thời gian có đủ quyền lực làm phôi phai nhiều thứ, thay đổi nhiều thứ. Chỉ khi bà nhỏ nhẻ nói với ông bằng một giọng nói còn thanh tân: " Nghe tin ông đang dựng lại nghề tổ, em đến xin ông cho em được hát mấy câu cuối đời" thì thiếu chút nữa nước mắt đã ứa trào trên gò má nhăn nheo tuổi tác.

Ông Liễn chở bà Xoan trên con đường đất đỏ đi vào xóm núi. Hai bên đường lúa đã chín vàng, trĩu hạt.

-Bà Xoan này, bấy lâu nay bà sống ra sao, có được an nhàn không?

 Bà Xoan nhẹ nhàng:

 - Thì cũng như bao người thôi. Em về quê làm ruộng rồi lấy một anh dân cày cùng làng. Nhà em mất đã 5 năm nay, con cháu đều trưởng thành cả rồi. Mấy chục năm có hát hỏng gì đâu, em lo không giúp được ông.

Câu nói chân thành của bà làm ông chạnh lòng. Trong ruột ông cồn lên như ai vừa cho vào đó nắm muối mà chà đi sát lại. Cô Xoan tươi tắn, ngoan hiền ngày nào giờ ngồi sau ông nhẹ như nắm bấc. Gió mưa bạc tóc cả rồi mà cái nghiệp vẫn chẳng chụi thôi đeo đẳng:

 - Con tằm đã nhả tơ thì đến chết nó vẫn nhả tơ, bà đừng lo quá. Sớm mai bảo cháu nó đưa lại chỗ tôi rồi tập vài lần là bà nhớ ngay thôi mà. Cái giấy biên địa chỉ tôi đưa bà nhớ giữ cẩn thận kẻo đánh rơi thì lại lạc nhau mất thôi.

- Cái giấy ấy em giữ kĩ đây rồi, ông đừng lo - giọng bà vẫn thanh như thế.

Im lặng một lúc, ông Liễn guồng chân đạp xe. Đắn đo mãi, ông tìm lời hỏi:

 - Bà…bà có thể cho tôi biết tình hình cô Nhạn thế nào không. Mấy chục năm rồi bặt tin, tôi vẫn mong mong là…

Bà Xoan ngỡ ngàng nhìn ông, gương mặt người kép đàn tài hoa khi về chiều không mấy thay đổi. Hai thái dương ông giật mạnh, nếp nhăn trên trán dãn ra rồi chau lại chờ đợi:

 - Oan trái lắm ông ạ.Chị ấy mất lâu rồi, mất sau khi ông đi thoát li chừng một năm mấy ngày thì phải. Cậu Nghị, con ông Chánh tổng Hàm ép  về làm lẽ mà chị không thuận. Dạo ấy trại lính Nhật bắt ca nữ vào mua vui, chị uống rượu độc tử tự làm cháy dây thanh rồi đổ bệnh mà chết.

Ông sửng sốt:

 - Lẽ nào lại thế, bà không dối tôi đấy chứ. Rõ ràng tôi thấy cô ấy lấy cậu Nghị rồi mà.

- Em nào dám đơm sai chuyện tày đình như thế chứ. Chị Nhạn chết trên tay em  mà, lúc hấp hối còn gọi tên ông mãi. May có cậu Nghị giúp cho việc mai táng, giờ vật đổi sao dời, em chẳng còn nhớ nổi mộ chị ấy ở đâu nữa ông ạ.

Câu trả lời hai năm rõ mười của bà Xoan như nhát búa tạ đập xuống đầu. Ông lảo đảo vội vịn vào thân cây, từ từ ngồi xuống, nước mắt trào ra, ông như thấy lại đêm biệt li năm xưa. Cái đêm ông cùng hai đồng chí nữa bắt trói tại sân sau nhà Chánh tổng Hàm.

Đêm ấy vào đúng tiết hàn thực ông và anh Vũ, anh Kháng quần áo tả tơi bị trói giật cánh khuỷu vào cây cọc buộc trâu, đầu gục xuống. Cậu cả Nghị dắt theo hai đứa ở trai cầm đuốc bước ra, chỉ vào kép Liễn lên giọng.

 - Chúng mày hắt nước vào mặt nó cho tao. Nhanh lên.

Đứa ở cầm gầu cao su chạy ra ao múc nước đem vào tạt thẳng vào mặt Kép Liễn làm anh sặc nước. Đầu óc u minh sau trận đòn hiểm bất chợt bị thùng nước lạnh dội vào, kép Liễn thấy mắt, mũi, miệng xộc mùi bùn tanh khẳn, máu nhớt bần đọng trong thất khiếu theo nước ộc ra nhạy nhụa. Anh từ từ tỉnh lại, cả Nghị hằn học đi quanh anh, đay nghiến:

 - Tỉnh rồi hả. Mày gan cóc tía thật, Ăn đòn hai ngày nay rồi mà nhất định không hé răng một câu. Giỏi thật, không ngờ chúng mày là Việt Minh nằm vùng. Cha tao đã trình quan trên cho xử bắn ba đứa chúng mày.

Kép Liễn nhổ một bụm máu trong miệng, gằn từng tiếng:

 - Muốn chém muốn giết thì chúng mày làm đi, đừng đến đây ngon ngọt dụ dỗ nữa, tao nghe rườm tai lắm.

 - Sáng mai thì muốn nghe cũng chả được nữa đâu. tao ra đây chỉ để báo cho mày biết một tin vui…hà hà, có lẽ mày nghe thì không mấy vui đâu nhỉ? - Cả Nghị không thay đổi sắc diện, tay quấn sợi thừng cái to gần bằng cổ tay giả tảng quay sang hai người bị trói bên cạnh. Sợi thừng thâm bết lại vì máu . Trong đêm, đám nhặng thính mùi tanh vo ve bay lại.

Kép Liễn nhắm nghiền hai mắt:

 - Cả Nghị, tôi thiết tưởng ông là người thông tuệ, được ăn học đến nơi đến chốn thì ông phải hiểu thế nào là liêm sỉ, thế nào là cái nhục mất nước mà đứng lên đánh đuổi lũ cướp nước…

Câu nói bị cắt ngang bởi một lằn roi thừng quật ngược tay.

 - Im cái giọng điệu phản động đi. Tao chỉ muốn báo cho mày biết là cô Nhạn đã nhận lời làm bà hai của tao. Tao muốn mày thấm cái cảm giác mất tất cả, đau đớn cùng cực khi đi theo Việt Minh. Rõ là bọn cùng đinh khố vải.

Kép Liễn oằn người như vừa bị giáng một roi nặng tựa ngàn cân. Một bụm máu nữa được nhổ ra, chua chát:

- … Cô Nhạn à…không lẽ… Mà phải, kiếp xướng ca vô loài như chúng tôi khác nào con sâu cái kiến. Tôi mừng là cô ấy có chỗ dựa…mong ông lo cho cô ấy chu toàn.

 - Mày có muốn gặp Nhạn không. Tao đã đón cô ấy về đây rồi, tao gọi ra cho mày sáng mắt nhé. Du, mày chạy vào mời mợ hai tao ra đây.

Người đầy tớ chạy vào trong, lát sau chạy ra bẩm lại:

 - Bẩm cậu, mợ bảo không muốn gặp bọn phản động. Mợ không quen biết mấy đứa cùng đinh vô học này.

Kép Liễn hực lên một tiếng đau đớn rồi đổ gục xuống, mắt thất thần. Cậu cả Nghị nhếch mép cười nham hiểm, quay lưng bỏ vào trong nhà,

            Cả đêm ấy kép Liễn hầu như không ngủ, miệng tanh nồng mùi máu, đám nhặng xanh bu đầy quanh những vết thương rỉ máu làm hai người bạn cũng  tỉnh sau trận đòn. Cả ba đưa mắt nhìn nhau gật đầu ra điều hiểu ý. Chợt có tiếng chân người bước tới, họ ra hiệu cho nhau vờ ngủ gục. Bước chân rón rén lại gần, lúc gấp gáp, lúc tần ngần do dự. Đó là Nhạn, cô chạy lại chỗ kép Liễn bị trói, tay cầm con dao bổ cau, gọi thảng thốt.

- Kép Liễn, kép Liễn … mau tỉnh lại đi. Ông Chánh Hàm đã xin quan trên cho bắn cậu và mấy anh em đây vào sáng ngày mai, bây giờ cậu không trốn ngay thì không kịp mất.

 - Mợ hai đấy à.Cô bận lòng vì hạng khố rách áo ôm chúng tôi làm gì?

 - Em xin cậu, đừng làm em nát lòng thêm nữa, em cũng khổ tâm lắm. Cậu mau cắt dây trói cho họ rồi đi lối cánh đồng ra đường lớn. Ngoài đó có phu xe chờ sẵn rồi. Cậu đi nhanh đi kẻo muộn. - tiếng Nhạn thiết tha, chịu đựng. Con dao cau sắc cứa sợi thừng trói đứt rời, anh vội cắt dây cho hai người kia, lẫn trong tiếng côn trùng, Nhạn thì thào chỉ lối:

- Mọi người đi lối này, nhớ đi đường đồng để chó đỡ sủa chứ nhà ông Chánh Hàm canh gác ghê lắm.

Một người lả đi không bước nổi, Liễn vội dìu bạn, người còn lại giắt con dao vào lưng quần, chắp tay xá cô một xá:

 - Đa tạ ơn cứu mạng. Nếu có dịp gặp lại xin đền đáp

ánh mắt cô đau đáu trong đêm:

 - Mọi người đừng khách sáo, cốt sao qua được vận hạn này rồi hẵng hay. Em có chút tiền dành dụm biếu mọi người cầm theo để phòng có lúc dùng đến.

- Cảm tạ cô. Rồi chúng tôi sẽ trả cô không thiếu một xu.

Kép Liễn bần thần nhận tiền rồi quay lưng đi sau hai người bạn, đi được dăm bước, anh quay lại đứng đối diện Nhạn. Khuôn mặt anh vằn vệt những lằn máu đông:

- Nhạn ơi, hay Nhạn đi cùng tôi. ở lại đây Chánh Hàm sẽ không tha cho Bướm đâu. Nhỡ … nhỡ có bề gì tôi ân hận lắm.

- Cậu mau đi đi, đừng bận tâm đến em. Em sẽ xoay trở được. Đi đi, mau đi đi mà…em xin cậu đấy.

Kép Liễn: - Vậy tôi xin đi. Ơn này tôi ghi tâm khắc cốt.

Kép Liễn vội vàng đi khuất sau hàng rào nhà Chánh tổng Hàm, Nhạn đứng tần ngần nhìn theo, mắt đẫm lệ.

Thoát chết cùng với hai người đồng chí sau trận đòn nhừ tử ở nhà chánh tổng Hàm, Liễn được điều về chiến khu, đơn vị của anh là quân chủ lực . Những ngày đầu chưa hợp thông thổ, anh bị ngã nước rồi sốt li bì từng cơn tưởng chết. Trong cái nóng lạnh dồn dập đổi vai của cơn sốt rừng, hình ảnh Nhạn cứ chập chờn như vẫy gọi anh phía bãi luồng. Những lúc ấy, anh trông rõ trong trời chiều nhá nhem tối, Nhạn ngồi đun nước dưới bếp của ca quán, ánh lửa hắt lên mặt làm má cô đỏ hồng. Đó là lúc anh thường gánh nước về qua, đứng lặng nhìn cô ngồi trong ánh lửa. Giọng hát ai oán diệu vợi. Anh đặt gánh nước xuống đất, nhẹ nhàng lại gần, lửa trong bếp hắt bóng Nhạn lên vách tường mềm mại.

Hồi ấy, anh mới chỉ là một anh kép nghèo tập sự cho gia đình bà trùm Đoan. Nhạn hơn anh hai tuổi, Xoan là em. Khi anh còn tập chạy ngón đàn, tập rung gân, nhấn nhá thì Nhạn đã là ca nương có tiếng của cánh gà trong. Cô đã xin bà trùm để anh tập cùng chị em cô nên mỗi lần đi hát mảnh bên ngoài, bà trùm thường cho kép Liễn đi cùng để tiện bảo vệ cô khỏi bị đám cậu ấm bất tử chòng ghẹo.

Như mọi lần khác sau khi tan canh hát, hai chiếc xe kéo chở Liễn và Nhạn chạy song song trên đường vắng. Đến gần chỗ rẽ vào ca quán Thanh Tân, họ dừng lại trả tiền xe rồi xuống đi bộ thong thả cạnh nhau.

- Hôm nay cô Nhạn hát hay quá. Tôi thấy các quan viên thưởng trống liên tục. Nhờ có cô mà hôm nay chúng ta được thưởng lớn.

Nhạn ý tứ đi lùi lại phía sau :

 - Cậu Liễn đừng nói thế. Đàn có ngọt thì hát mới hay. Em hát được như vậy là nhờ có cậu đàn khéo. Mấy tên hiến binh người Nhật đâu có hiểu tiếng mình mà cũng hô …Tốt..tốt… và thưởng bao nhiêu thẻ đấy thôi.

Kép Liễn trầm ngâm đi bên cạnh cô, Nhạn liếc nhìn anh rồi lại cúi xuống, dè dặt.

- Em nói gì không phải khiến cậu phật ý hay sao mà cậu không mở lời. Phận quần thoa như chúng em không hiểu chuyện đời là mấy, có gì không nên không phải mong cậu đánh cho hai chữ đại xá.

Kép Liễn vội cải lời:

 - Không, không đâu cô Nhạn ạ. Tôi nào dám có ý ấy. Những điều cô nói đều đúng cả nhưng vì lòng tôi bận nghĩ đến chuyện khác nên không kịp tiếp lời cô. Mong cô không trách.

Chạnh lòng, nét mặt Nhạn buồn buồn nói bâng quơ.

- Chắc cậu đã có nơi để mà thương mà nhớ nên mới lơ đãng đến vậy.

- Đâu có, tôi chỉ là một anh kép đàn nghèo kiết thì làm gì có ai thèm để ý đến. Tôi đang nghĩ đến mấy tên hiến binh Nhật vừa rồi kia thưa cô.

- Họ làm sao cơ. Em thấy họ cũng dễ thương lắm mà. - Nhạn nhíu mày không hiểu làm anh buột miệng sẵng giọng:

- … nhưng chúng nó là quân cướp nước.

Nhạn giật mình, cô đưa mắt nhìn quanh khúc đường vắng:

 - Kìa cậu, ở đây tai vách mạch rừng. Cẩn thận kẻo vạ miệng thì khổ.

Kép Liễn quay lại, anh rụt rè nắm lấy hai vai Nhạn, nhìn thẳng vào mắt cô.

 - Nhạn này, đã lâu tôi muốn nói với Nhạn điều này mong Nhạn hiểu cho lòng tôi đối với Nhạn. Sắp tới tôi phải đi xa một thời gian.

- Cậu định đi đâu, mà cậu đi rồi ai sẽ đàn cho ca quán Thanh Tân nữa. Cậu định bỏ mọi người, bỏ…bỏ em mà đi thật sao?

- Hiểu cho tôi. Tôi cũng nát lòng lắm chứ. Bao năm nay tôi đã coi quán Thanh Tân và bà Trùm, cu Tít, Xoan và cả Nhạn nữa như người nhà. Vả lại tôi đâu đã đi ngay. Tôi định dạy cho cu Tít vài ngón đàn vững vàng rồi mới đi.

- Nhưng cậu đi đâu, cậu có thể cho em biết không? - Cô gặng hỏi:

- Tôi đi theo cách mạng Nhạn ạ. Ông cha ta có câu ” Quốc gia hưng vong, sĩ phu hữu trách”. - kép Liễn trả lời - Tôi dù chỉ là anh kép nghèo nhưng không lẽ cứ giương mắt nhìn quân giặc ngang nhiên vùi dập dân mình, giày xéo đất nước mình. Hôm nay thấy cảnh bọn hương lý, chánh tổng xun xoe nịnh nọt mà tôi sôi huyết lắm. Ngồi đàn mà như ngồi trên đống lửa…

Nhạn bước lên một bước, cô đứng đối diện với kép Liễn - điều mà những đào hát như cô được dạy là không được làm thế - cô dịu dàng cầm lấy tay anh:

- Cậu đã có chí hướng của riêng mình em nào dám cản. Chỉ mong bước đường cậu đi chân cứng đá mềm thì em yên dạ phần nào. Tấm chân tình của em mong cậu hiểu.

-Nhạn ! Thật Nhạn không chê tôi sao?

Không có tiếng trả lời, hai bàn tay người ca nữ  lặng lẽ nắm tay Kép Liễn thật lâu. Hai người cứ đứng như thế nhìn nhau trong ánh đèn le lói nơi góc đường.

Cái đận tỏ lòng cùng nhau giữa cô đào hát mồ côi và anh kép nghèo ngày ấy thấm thoắt đã gần 60 năm. Chiến tranh liên miên làm hai người bặt tin nhau. Đường binh nghiệp của ông là những chuỗi ngày hành quân không ngừng nghỉ, những trận chiến bom đạn gầm rú liên miên, những trảng rừng bị nepan làm cho cháy rụi, đất núi lở loét, bợt bạt như từng mảng da thịt con người bị bỏng. Mùi thuốc súng nồng nặc không át nổi mùi rừng, mùi da thịt cháy âm ỉ dọc con đường mòn huyền thoại. Mỗi khi có đồng đội ngã xuống, ông lại ôm cây đàn nhị tự chế bằng vỏ đồ hộp, cành mây già và một sợi cước se từ bao tải nilông. Tiếng đàn nỉ non, ai oán bào cứa gan ruột bao người, thúc dục họ bền bỉ, ngoan cường tiến lên phía trước. Cấp trên biết chuyện, lúc đầu gọi lên "sạc " cho một trận là tiểu tư sản, là uỷ mị thực dân… sau rồi cũng thông cảm cho qua. Chiếc đàn độc nhất vô nhị ấy giờ đang nằm tại nhà truyền thống của sư đoàn như là một minh chứng cho những tháng ngày ác liệt mà đáng yêu, đáng nhớ ấy.

Hết chiến trường này qua chiến trường khác, ông giống như một quả bom ba càng thô mộc, đơn giản mà có sức nổ phi thường. Đường dài, tháng ngày ruổi mau. Tóc ông bạc nhanh hơn cả thời gian. Tin qua mấy người đồng hương hiếm hoi gặp trên đường hành quân lúc thì bảo Nhạn đã theo Cả Nghị vào Nam, khi thì nói cô lấy chồng Nhật… chiến tranh loạn lạc bao năm, khu Cánh gà trong, Cánh gà ngoài từng vang tiếng đàn của ông, tiếng hát của cô khi xưa đã bao lần bị máy bay ném bom cày xới. Thôi thì cũng mừng cho cô, thoát được mà sống sót.

Có bà Xoan giúp sức đào tạo ca nương, ông cũng bắt đầu đi tìm người để truyền dạy ngón đàn của mình. Đã có mấy người tìm đến ông xin được học nghề và trả công thầy thật hậu. Ông biết họ là những nhạc công dân tộc giỏi nghề, lại đang có tiếng nhưng vẫn kiên quyết chối từ. Với cây đàn của ông, giỏi nghề thôi chưa đủ mà cái tâm còn cần phải sáng.

Một lần, có người hát rong mù kéo nhị tên Thuận vào nhà ông xin ăn, ông nghe tiếng xẩm rồi hỏi về hoàn cảnh, xuất xứ của anh ta. Thấy Thuận tuy mù nhưng tấm lòng trong sáng, hiểu biết trước sau, ông đã quyết định nhận anh làm học trò, những mong giúp được anh có thêm một nghề mà mưu sinh.

Có kép đàn, có người hát, nhóm ca trù của ông dần dần đi vào tập luyện bài bản. Ông và Thuận thay nhau đàn cho bà Xoan hướng dẫn hai người học trò nữa vào hát. Mấy người có già có trẻ trải chiếu ngồi tập luyện trong nhà. Bà Xoan làm mẫu cho Quyên và Mai đánh phách.

- Hai cháu tập lại nào, tà rục…chát chát…, tà rục …chát chát…, bốp chát chát… đánh lại đi. Khi vào phách , cần thả lỏng cổ tay, buông phách thật tự nhiên, nhẹ mà dứt khoát, đanh tiếng. Tiếng phách có giòn, có xô nhịp thì mới quyện được vào tiếng đàn đáy trầm đục, man mác buồn.

- Bà nói đúng đấy, các con gắng mà học. - ông phụ hoạ -  Ngày xưa, nhà thơ Trần Huyền Trân đã từng vịnh tiếng phách bằng hai câu thơ tài hoa làm xao xuyến lòng người" Chao ôi giông tố hay sên phách  Tay nhỏ gieo hồn xuống chiếu hoa". Chả mấy ai viết hay như thế..

Thuận dừng đàn, khẽ cười khiến đôi lông mày dãn ra, cặp mắt bớt u tối:

 - Thật là tài tình quá, chỉ có hai câu mà quán xuyến được hết nhẽ. Ông ơi, vậy có câu thơ nào nói về cây đàn đáy không thưa ông?

- Có đấy, nhưng không phải thơ mà là văn. Đàn đáy tục truyền rằng do ngài Đinh Lễ được hai vị tiên ban tặng. Đàn được làm bằng gỗ ngô đồng, cần đàn đáy dài có 11 phím, dây bằng tơ the, hai dây ngoài căng, dây giữa chùng nên gọi là dây thòng dùng để đệm tiếng xoè. Nhà văn Nguyễn Tuân đã từng viết: Có những lúc dây thòng xoè dựng nghe tức tưởi như giao hoan chừng dang dở nhưng có tức tưởi như thế mới là đàn đáy của ca trù, nếu thiếu đi tiếng xoè dựng ấy mà dại dột đem đàn nguyệt thay thế nó thì hỏng hết cả. Đàn nguyệt tuy nhiều thanh âm hơn nhưng khi đánh cho hát ca trù thì thanh âm nghe nó tanh lắm. Ông  thử dùng đàn nguyệt vài lần. Quả có thế thật.

Thuận lần tay lên từng phím đàn đáy, dùng móng đàn đáy gảy vào ba dây tạo nên tiếng xoè.

Ông Liễn gật gù:

 - ấy, chính là tiếng xoè dựng ấy đây. Anh đã tập được vài phần rồi, tuy tiếng xoè ấy chưa thật đúng cách cho lắm nhưng tập dần mới nhập được.

- Dạ, con hiểu ạ. - Thuận cúi đầu mải miết lên dây đàn.

***

Hôm những học trò của ông chính thức được trao huy chương vàng tại Liên hoan ca trù toàn quốc, nhà ông Liễn có người khách lạ. Bà Xoan  đưa ông Nghị, tức Cả Nghị ngày xưa,  đến nhà ông. Vừa xuống xích lô, giọng nói thanh thanh của bà đã gióng giả từ đầu ngõ

 - Ông Liễn ơi, mở cửa đón khách nào

Ông vội chạy ra mở cửa đón bà, chợt nhìn thấy ông Nghị, ông liền lạnh mặt quay đi, ông Nghị vội lên tiếng trước

- Vâng, chào ông. Hôm nay là ngày chung kết cuộc thi, bà Xoan ra chỗ tôi từ sáng bảo chiều nay qua ông cùng xem mấy đứa trẻ  diễn xướng thế nào. Tôi cũng ngại phiền ông…

Ông Liễn định cất lời thì bà Xoan  chen ngang:

 - Hai cái ông này, phiền hà gì chứ. Sắp đi gặp ông bà ông vải rồi mà còn giận dỗi, mát mẻ nhau như trẻ con. Vào nhà đi nào.

 Hai ông nhìn bà rồi lại nhìn nhau ngần ngại. Khi ba người ngồi quây quần bên bàn nước, ông Liễn mới mở lời:

 - Mời ông bà xơi nước, nụ vối tôi mới hãm đấy.

Bà Xoan nhấp chén nước, nắc nỏm khen:

- Ngon quá, dạo này chỗ nhà tôi chả tìm đâu ra nụ vối tốt. Mấy đứa trẻ nhà tôi chỉ mua được lá vối thôi. Lá vối tuy cũng có vị nhưng không bùi và đượm bằng nụ vối.

 - Chừng nào bà về tôi xin biếu bà một ít, ngoài này cũng khó kiếm được nụ vối ngon vì họ chặt cây cả rồi, tôi phải đặt ở nhà ông bạn thân đấy bà ạ.

Ông Nghị cũng chiêu một ngụm lớn

 - Nhà tôi từ ngày chặt gốc vối ở sân sau đến giờ không mấy khi uống nước vối nữa. Chà, ngon thật đấy. Ngày xưa ca quán Thanh Tân vẫn luôn hãm nước vối ấm cho khách dùng giải rượu. Cô Nhạn…

Ba người lặng đi, chén nước nâng trên tay sóng sánh, ông Nghị xoay xoay tách nước vối trong tay, nét mặt bối rối vì lỡ lời:

 - Thôi nào, nhắc chuyện cũ thế đủ rồi. Hai ông giờ tóc bạc da mồi cả rồi, còn chuyện gì hơn là bỏ qua cho nhau để sống cho thanh thản nốt những tháng ngày còn lại. Ông Liễn này, tôi nghĩ…

 - Bà xơi nước đi. Tôi hiểu mà… - Ông cắt ngang lời bà rồi quay sang Ông Nghị -  Mời ông xơi nước, chuyện cũ thôi đừng tính toán. Tôi có hơi hẹp lượng…

 - Tôi nào dám cấn cá chuyện ấy… à, tôi vừa sáng tác một bài hát thơ hát nói. Bà hát cho chúng tôi thưởng thức với nào.

Họ nhìn nhau cười vui vẻ. Ông Liễn với tay lấy cây đàn đáy treo trên tường xuống, khuôn mặt ông bừng sáng, những sợi tóc bạc loà xoà trên trán:

 - Nào, mời đào nương và quan viên vào canh hát cuối đời.

Bà Xoan ngồi xếp bằng trên chiếu, sắp phách ngay ngắn, bà giáo ông:

 - Sao lại canh hát cuối đời, ông phải nói là canh hát mừng chiến thắng. Mừng cho ca trù hồi sinh từ đây.

 - Bà nói phải. Mừng cho ca trù hồi sinh.

Ông Nghị gõ ba tiếng trống xuyên tâm trù giục vào hát. tiếng đàn đáy quyện tiếng phách cất lên dìu dặt, rồi chuyển lên một cung rộn rã, uyển chuyển như reo vui. Ngoài vườn, những bông hải đường nở sớm hồng tươi rung rinh trong gió. Bà Xoan dóc phách nhịp nhàng rồi vào hát./.